Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Ghi chép ở Sơn Đông: Ý THỨC VỀ THANH GƯƠM KHAI QUỐC TRẦN NGUYÊN HÃN

Trong các sự kiện được đi vào huyền tích của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Bình Định vương Lê Lợi khởi xướng năm 1418, có huyền tích về “Bình Ngô sách” của Nguyễn Trãi và “Thanh thần kiếm” của Trần Nguyên Hãn ứng với câu ngạn ngữ trong dân gian truyền về sau “Tả tướng Gốm”, “Hữu tư Đăm” là hay nhất. Nhiều học giả đã viết hoặc đã bàn về các huyền tích này. Tôi muốn nhắc đến thanh gươm “Thuận thiên” của Bình Định vương Lê Lợi mà về sau gắn với sự “Hoàn kiếm” của Lê Hoàng đế trên hồ Lục Thủy (tên gọi trước của Hoàn Kiếm hồ ngày nay). 

Đầu tiên là trong sách “Lam Sơn thực lục” do Nguyễn Trãi soạn, rồi đến sách “Đại Việt thông sử” của Lê Quý Đôn đều có chép là thanh gươm của Lê Thận (Đặng Thận) người làng Mục Sơn Thanh Hóa đi kéo cá trên sông Lam, cá chẳng được, chỉ được một thanh sắt dài. Đêm tối có phát ra ánh sáng. Khi Đặng Thận tiến dâng cho Lê Lợi đã trở thành “Gươm Thuận thiên”: Thuận theo lòng trời. Huyền tích tưởng chỉ có thế, bởi sách sử đã có ghi và lòng người từ hơn 600 năm nay vẫn tưởng là như thế. Song, trong ngày hội thảo Khoa học cấp nhà nước về thân thế và sự nghiệp của Tả tướng quốc tổ chức tại huyện đường của UBND huyện Lập Thạch, các đại biểu về viếng di tích Trần Nguyên Hãn ở Sơn Đông, chứng kiến cảnh trời mây nước ở nơi có: Ghềnh Đông Hồ nước chảy đá trơ trơ Đền tả tướng rộng thu vầng chính khí. Và đọc các bài thơ đề viếng của các vị tiên hiền “đề bích” (đề lên tường) trong di tích như câu của TS Nho học đời vua Tự Đức Nguyễn Văn Tính :
月影藍山天子劍
“Nguyệt ảnh Lam Sơn Thiên tử kiếm”,
Câu của vị tiền bối khác:
片石長留寶劍寒
“Phiến thạch trường lưu bảo kiếm hàn”
 thì lại là cuộc gần như hành hương trở về với thời “Anh” thanh niên Trần Nguyên Hãn mài gươm nuôi chí năm nào.

Truyện kể rằng: Trong thời kì giặc Ngô (Minh) thống trị nước ta, Trần Nguyên Hãn mới bước vào tuổi thanh niên. Vì nhà nghèo (Cha mẹ lên khai hoang lập trại ở địa đầu ấp Đông Sơn) nên Trần Nguyên Hãn vẫn ngày ngày cày cuốc ở nương Gò Rạch . Trong một lần Trần Nguyên Hãn cày bật lên được một thanh sắt dài tựa như lưỡi gươm. Ông mang về nhà mài, thấy sắc bén nên cất đi vào chỗ kín. Đêm đêm thấy có ánh sáng lạ từ chỗ ấy phát ra nên càng nên biết là vật quý, mới tường đêm dem ra mài ở hòn đấ lớn bên bờ Ao Son, cạnh đường vào nhà, tức là con đường đi vào đền tả tướng quốc ngày nay. Gươm mài trong 10 năm, hòn đá có vết lõm dài đến 40 cm do công sức của người mài, cộng với lòng yêu nước “Luôn nuôi chí cứu đời giúp dân” (Đại Việt thông sử). Và thanh gươm vẫn được hàng ngày mang theo bên mình, hoặc để trong chiếc đòn ống gánh dầu dọc đi bán. Nay thì chợ Gốm, mai chọ Bồ Sao, chợ Bạch Hạc Và cũng nhân tình cờ mà có bữa cơm ăn con trai trai trên nhà bè của ông lão ngư dân thiết đãi ở cửa sông Đáy (Để Giang ). Thanh gươm được hoàn chỉnh bởi một cái chuôi gỗ được ông nhà bè cho gắn vào như là sự thiên tạo. Tình tiết cũng giống như gươm của Đặng Thận, khi đã tra chuôi vào thì không bao giờ còn rút ra được nữa. Phải chăng đây là ý trời hay thuận lòng người mà cái ý chí không thay đổi “cứu đời giúp dân” đã cố định.

Đá mài gươm nay đặt trong lăng
          Trần Nguyên Hãn mài gươm! Đó là một sự kiện có thật. Sự thật là còn hòn đá mài gươm đây, và sâu lắng với thời gian, trở thành đề tài của thơ ca người Sơn Đông, trở thành một thần tượng tâm linh. Di tích Sơn Đông phiến đá thờ. Khiến người qua đó trạnh niềm mơ. Xưa in nước biếc lung linh bóng Nay ánh gươm thiêng phẳng lặng tò. Đạp đát tiếng thơn lưu vẻ quý Vá trời cơ nghiệp lắng hồn thơ Kiếm mài sáng tỏ công phò chủ Mở mặt non sông hiệu trống cờ. Vũ Đình Nguyên, Quan Tử. Trần Nguyên Hãn tuy có cuộc sống dan dã thời ấu thơ và trưởng thành trong chuân chiên của cuộc chiến tranh ái quốc, nhưng chính ông lại có nguồn gốc lá ngọc cành vàng. Tổ 04 đời của ông là cụ Trần Nguyên Đán là quan tể tướng dười triều vua Trần Nghệ Tông (1370-1372). Là chắt 07 đời của Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải. Cụ Trần Quang Khải từng được vua cha Trần Thái Tông ban cho một thanh kiếm và một lá cờ trở thành nhân vật kiệt xuất đầu nhà Trần vơi hai câu tán tụng: 

一代功名天下有
兩朝忠孝世間無
 Nhất đại công danh thiên hạ hữu 
Lưỡng triều trung hiếu thế gian vô. 

“Lưỡng triều” là trìều của vua Thái Tông và Nhân Tông. Thanh gươm ấy cùng vung lên trong các cuộc đại chiến Chương Dương, Hàm Tử nay lại trở thành gươm báu truyền gia qua 06 lần người đời đến tay Trần Nguyên Hãn như một định mệnh: Gươm giời cho để phò vua cúu nước, ứng với câu sấm: “ Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần, Tả tướng Gốm”. Từ một hiện thực, tình tiết về thanh gươm đã trở nên huyền thoại, rồi đi vào huyền tích trở thành gươm “Thuận thiên” . Để đến thế kỷ thứ 19 trên đường xuất bôn “Cần vương”, ông Tôn Thất Thuyết vẫn mộng mơ có được thanh gươm như thế. Ông đã lên đền Tả tướng ngủ một đêm cầu mộng và rồi đổi lấy gươm thần mang đi. Và cả ông Xứ Nhu nưa cũng đã đến đền để nằm mộng:
Thanh dạ hữu thần nan tá mộng
Tinh chung vô kiếm dị bình Ngô…
Nghĩa:
Đêm thanh thần mộng khó vô cùng.
Bình Ngô không kiếm dễ không chừng…
Thanh gươm và đá mài gươm trở thành đề tài của một đôi câu đối và bài thơ do một vị quan đầu tỉnh về thăm rồi đề ở đền:
 
Phiên âm.
 Bạt kiếm trảm thiên kiều, Nam quốc sơn hà trung bất cải.
Hạ xa bái linh miếu Đông Sơn tú cổn vẫn như tồn.
Nghĩa:
Tuốt gươm chém “cầu giời”, sông núi nước Nam không thay đổi.
 Xuống xe vái miếu thiêng, Đông Sơn mũ đẹp vẫn như còn.
Và,
片石長留寶劍寒 Phiến thạch trường lưu bảo kiếm hàn.
 藍山雲樹草花間 Lam Sơn vân thụ thảo hoa gian.
滔滔逝水波逃靜 Thao thao thệ thủy ba đào tĩnh.
泛泛孤舟事業閒 Phiếm phiếm cô chu sự nghiệp nhàn.
忠烈一心經北寇 Trung liệt nhất tâm kinh bắc khấu.
雄威萬古鎮東山 Hùng uy vạn cổ trấn Đông Sơn.
丈頭蔾火經恢領 Trượng đầu lê hỏa kinh khôi lãnh.
 依舊山河永不刊 Y cựu sơn hà vĩnh bất san.
劂名 Khuyết danh.
Tạm dịch:
"Đá còn gươm báu chẳng còn.
Núi Lam cây cỏ muôn vàn tốt tươi
Ầo ào nước chảy về xuôi
Con thuyền thấp thoáng cảnh chơi nhẹ nhàng.
Lòng trung để giặc bàng hoàng
Hùng uy muôn thuở Đông Sơn vẫn còn.
Gậy lê ngọm lửa đã tàn.
Giang sơn sau trước vẹn tòn giang sơn."

Tôi cứ tự hỏi nếu là gươm “Thuận thiên” của vua Lê thì đã có hồ Hoàn Kiếm minh chứng rằng nhà vua đã trả lại gươm cho đất trời, còn thanh gươm ấy nếu là phải của Trần Nguyên Hãn dâng nhà vua thì đâu có còn nữa? Vậy thì chỉ có bến Đông Hồ mới là nơi minh chứng cho rằng gươm kia là của ai, còn hay mất, ở giây phút cuối cùng trên con thuyền về Đông Đô theo lệnh của nhà vua. Chỉ có hòn đá mài gươm bên bờ Ao Son thì vẫn còn ở Sơn Đông cũng như hồ Hoàn Kiếm vẫn hiện diện ở thủ đô Hà Nội mới là những vật chứng của một thời kỳ lịch sử hào hùng đã qua đi rồi mà vẫn như đang còn trước mắt.
               Tháng 03 năm 2013.

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013


THÔNG TIN VỀ NGÔI ĐỀN THỜ TẢ TƯỚNG QUỐC
TRẦN NGUYÊN HÃN Ở XÃ SƠN ĐÔNG.


Lê Kim Thuyên
                            
Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn 陳 元 捍 tự chìm thuyền ở bến Đông Hồ 東 湖 xã Sơn Đông, nay thuộc địa bàn thôn Đa Cai 多 該 ngày 26 tháng 02 năm Kỉ dậu (năm 1429) dưới triều vua Lê Thái Tổ húy Lợi, hưởng dương 39 tuổi. Đó là một độ tuổi đang cường tráng về thể trạng và minh mẫn về trí tuệ.
Tuy nhiên, đang thời kì ấy thì xảy ra sự việc ở bến Đông Hồ. Khi nghe tin tức khắc hoàng đế Lê Lợi đã nổi giận. Theo trong sách “Đại Việt thông sử” 大 越 通 史 của tác giả Lê Quý Đôn viết ở thế kỉ 18 thì nhà vua đã lập tức ra chiếu chỉ tịch thu nhà cửa ruộng đất, bắt giam vợ và con của ông Hãn. Nguyên thư chép là: “ Sự văn, chiếu thúc kì thê tử, điền sản” 事 聞 上 詔 叔 其 妻 子 田 . ( Bản A 1389, viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội).
Về việc này, sách “ Khâm địmh Việt sử thông giám cương mục” 欽 定 越 史 通 鑑 綱 目 của Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn vào đời vua Tự Đức (1848-1883 có đoạn viết nhận xét về vua Lê Thái Tổ: “ Nhà vua… kíp khi lên ngôi, quy định thuế khóa, chia ruộng đất, ban hành luật lệnh, mở khoa thi, tổ chức quân cấm vệ, cắt đặt quan chức, tưởng lục công thần, dựng trường học…quy mô sáng nghiệp có thể là rộng lớn, nhưng hay nghi kị, đa sát, đó là chỗ kém của nhà vua. (Xem Cương mục bản dịch tập IX trang 30, nhà xuất bảnVăn Sử Địa Hà Nội năm 1969 ).
Tuy nhiên, về việc làm của mình đối với Trần Nguyên Hãn, về sau cũng có lúc nhà vua đã có tỉnh ngộ. Bằng chứng là trong cuốn “Hoàng việt xuân thu” 皇 越 春 秋, viết ở cuối thế kỉ XVI đã có ghi: “Từ sau sự việc Trần Nguyên Hãn ở sông Lô, nhà vua (Lê Lợi. LKT) vẫn thường nhắc nhở rằng: Chỉ vì Trẫm chót nghe theo lời vu cáo của người ta, nên đã triệu hồi ông Hãn về kinh đô, vậy mà gây nên họa cho ông ấy. Nếu không, ông ta đã chẳng tự gây nên nông nỗi thế. Mãi về sau, người đời vẫn cho là Trẫm bạc với công thần, đẻ tiếng cười đến nghìn năm vậy. Nói rồi, vua tự nhiên rơi nước mắt”. ( Bản viết, tờ 3b).
Viết ở thế kỉ XVIII, nhà Sử học Lê Quý Đôn cũng đã nhận xét : “ Sau này, vua Thái Tổ hối hận thương hai người bị oan (tức Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn. LKT), lại biết bọn Lê Quốc Khí đều là hạng tiểu nhân xảo quyệt , nên rất ghét chúng”. Ông còn viết tiếp : “Về sau bọn chúng đều có việc bị đuổi, nhà vua xuống chiếu bảo các quan rằng: bọn Lê Quốc Khí, Trình Hoành Bá, Lê Đức Dư mà trong thiên hạ có kẻ mưu phản cần tố cáo cũng không cho bọn ấy được tố cáo”.
Rồi nhà vua mới sai lập đền để cầu đảo, phong cho làm Tả quốc Trung liệt đại vương, động chủ huyện Lập Thạch, ngôi đền do dân thờ tự. (Tài liệu của sách Hoàng Việt xuân thu).
1. Lịch sử xây dựng.
Đó là nguyên do để có ngôi đền thờ Tả tướng quốc ở xã Sơn Đông như sách “Đại Nam nhất thống chí” 大 南 一 統 志 tỉnh Sơn Tây, mục đền miếu ghi chép: “Đền thần Tả tướng họ Trần ở xã Sơn Đông huyện Lập Thạch, thần họ Trần, húy là Nguyên Hãn, người xã ấy”. (Bản dịch tập 04, trang 228. nhà XB KH-XH Hà Nội năm 1971). Nay thuộc về thôn Đa Cai xã Sơn Đông.
Như vậy ngôi đền đã dược dựng lên từ rất sớm, đầu thế kỉ XV. Đến thời vua Lê Nhân Tông vào năm Diên Ninh thứ nhất (1454) do ông được minh oan “trả lại gia sản ruộng đất, tha ra vợ và con” nên ngôi đền có nhiều thuận lợi để được tu sửa và mở rộng quy mô.



Bức hoành gian chính điện có 4 chữ Khai Quốc Nguyên Huân

Về việc lập đền, sách “Sơn Tây tỉnh chí” 山 西 省 志 , tài liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội (bản A 857, tập hạ, tờ 35b-36a) cho hay: “ Công một hậu pha trứ linh dị. Phương dân tức kì cựu trạch lập từ, tuế nguyệt chí tế” 公 沒 後 頗 著 灵 異 方 民 即 其 舊 宅 立 祠 歲 月 致 祭. Dịch là: Sau khi ông mất, trở nên linh dị. Dân địa phương nhân nền nhà cũ dựng ngôi đền, tháng năm đến làm lễ tế. Như vậy, thời gian tính từ khi khởi lập đến nay đã vào khoảng 584 năm tồn tại và phát triển. Mục “nhân vật” sách “Đai Nam nhất thống chí” 大 南 一 統 志 thì chép: Sau khi mất, thường hiển linh, người địa phương lập đền thờ, gọi là đền Tả tướng; bản triều (tức triều Nguyễn. LKT) có sắc tặng. (Xem bản dịch tập 04, NXB KHXH Hà Nội năm 1971, trang 232).
Như vậy là suốt quá trinh hơn 500 năm qua chỉ thấy sách sử viết về việc dân lập đền thờ và thờ cúng, không hề thấy nhắc nhở gì đến việc vợ và con ông trở về nơi quê cũ. nhận lại điền sản và thờ cúng ông. Hương ước làng Quan Tử chép về việc thờ cúng của dân làng là như thế này: “Ao công là Ao Cá có 01 mẫu 03 sào 10 thước để làm hương đăng ở đình Thượng”.( Xem HƯ.3423, trang15, tư liệu viện TT KH-XH Hà Nội).
Ngày nay còn lưu giữ được các thư tịch ở ngôi đền trong đó có phần chép các bài thơ “đề bích” (đề lên vách-tường) của các nhà chí sĩ xưa từng đến viếng, có những câu ý vị về ngôi đền như của các vị sau đây:
- Nguyễn Văn Tính, người  xã Cựu Hào huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định, thi đỗ TS khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái 13 (1901) triều Nguyễn:
便 是 東 阿 別 有 天
 Tiện thị Đông A biệt hữu thiên.
(Ấy là mảnh trời riêng của nhà Đông A (Trần).
- Song Lãng TS người quê lúa Thái Bình:
十 載 經 輪 茅 屋 裏
Thập tải kinh luân mao ốc lí.
(Mười năm xông pha về với ngôi nhà tranh).
- 鳳 嶺 歸 來 任 故 吾
 Phượng lĩnh quy lai nhậm cố ngô.
(Trở về đỉnh gò Phượng nơi nhà xưa).
- Hoặc là như TS Nguyễn Quỳnh:
兵 火 不 恢 香 火 地
一 新 廟 貌 久 重 輝
Binh hỏa bất khôi hương hỏa địa
Nhất tân miếu mạo cửu trùng huy.
(Binh lửa không có ở nơi đây, nơi đất ông cha ở lại
Một lần làm đền miếu mới, đẹp đẽ đến chín tầng mây).
Đó đều là những chứng cớ để năm 1924, viên tuần phủ tỉnh Vĩnh Yên là TS Nguyễn Văn Bân viết trong tập địa kí “Vĩnh Yên phong thổ kí” 永 安 風 土 記 là ngôi đền tọa lạc trong khuôn viên “Nhân cố trạch khởi từ miếu” 因 故 宅 起 祠 廟.(Nhân nhà cũ, dựng đền miếu).
Về quy mô của ngôi đền xưa như thế nào thì không có tài liệu để tham khảo. Chỉ biêt qua tương truyền là có hướng nhìn thẳng ra sông Lô, là hướng tây nam theo hướng nhà cũ từ thời sinh ra Trần Nguyên Hãn, có cổng bước thẳng xuông ao Cá 泑 個, là đầu nguồn của một dòng chảy từ đó ra sông Lô qua cửa sông được gọi là Cống Khẩu 貢 口 phía bên trên bến Đông Hồ  東 湖, nơi thuyền của Tả tướng hàng ngày vẫn ra vào. Cũng do hướng ấy mà trong làng đàn ông thì nhút nhất, đàn bà thì táo tợn mà kinh tê thì kém thịnh vượng, nên về sau mới  có sự thay đổi.
Ngôi đền ngày nay tương truyền theo phong thủy là toạ giữa trán con hổ dữ trong hình cảo “mãnh hổ xuất lâm” 猛 虎 出 林 (hổ dữ lìa rừng) trong số hình thế “ngũ hổ quần dương” 五 虎 群 羊 (năm con hổ vờn con dê) của một tập hợp những đỉnh gò ở phía sau ngôi đền mà nay vẫn còn địa danh là “hổ quần” 虎 群. Con hổ đang rình bắt một con lợn đang đi ăn là hình tượng của quả gò có địa danh là Gò Hóp 塸 哈. Phía chính diện ngôi đền lầ quả gò hình tròn dân điạ phương vẫn goi là Gò Gai 塸 荄, vì là hình tròn như miệng trống nên được gọi là Gò Trống 塸 𤳢, cùng sánh với quả gò ở bên phải là Gò Rạch mà nhân dân địa phương ví là Gò Chiêng 塸 鉦: Bên chiêng, bên trống trong tâm linh thờ tự.
Theo trong hồ sơ xếp hạng của nhà Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phú lập tháng 06 năm 1983 (cấp bằng công nhận di tích Lich sử-Văn hóa cấp Quốc gia năm 1984) thì ngôi đên trước năm 2012 đã được sửa chữa 03 lần:
* Lần 01 vào thời kì đầu của triều Nguyễn là căn cứ vào các hình thế tạo dáng của các họa tiết trang trí ở các đầu bẩy nhà tiền tế.
Tuy chưa xác định được niên đại chính xác của lần tu sửa này, nhưng cũng đó là điểm khởi tạo của ngôi đền có hướng đông nam trong khuôn viên ngôi nhà cũ như hiện nay.
* Lần thứ hai tu sửa vào năm Giáp tuất là năm Tự Đức thứ 27 (1874), dòng lạc khoản này được ghi ở câu đầu phần thượng cung  嗣 德 甲 戌 貳 拾 柒 年 重 修 nên đây là phần làm thêm thượng cung để hình thành kiểu dáng chữ “Đinh” () cho ngôi đền.
* Lần thứ ba là lần cuối cùng trước năm 1945 vào năm Kỉ mão đời vua Bảo Đại (1939), trên xà dọc ngoài gian tiền tế còn hàng chữ: Bảo Đại thập tứ niên, tuế thứ Kỉ mào trùng tu. 大 拾 肆 年 歲 次 己 卯 重 修. Lần trùng tu này lát gạch hoa ở nhà tiền tê, dựng tam quan, lát sân, xây tường hoa hai bên sân từ tiền tế tới tam quan.
Tổng thể ngôi đền như vậy là có hai khối kiến trúc.
- Khối tam quan đền là một tòa nhà chồng diêm 04 mái theo kiểu “thượng thực hạ hư” hai bên đốc xây bằng gạch Bát Tràng. Hai bên đầu hồi có hai gian gác lửng để treo chiêng trống. Giữa là cửa vào cấu trúc kiểu “thượng song hạ bản” gồm 04 cánh. Có hai pho tượng lực sĩ đứng gác tạc băng gỗ mít sơn son thếp vàng, bên trên có bức hoành ba chữ đề “Tối linh từ” 最 靈 祠 (đền thiêng bậc nhất). Cổng đền có 07 bậc xây gạch từ đường cái mà lên đến sân đền dùng làm nơi thực hành lễ tế.
- Đền chính là tòa kiến trúc chữ “Đinh” () gồm 02 gian thượng cung nối với tiền tế bằng 01 gian “ồng muống” gồm 06 chiếc cột. Cửa thượng cung có xà giường, trên lắp ván mê chạm hình “lưỡng long triều nguyệt” 兩 龍 朝月, gian giữa đặt đồ thờ tự cùng cỗ long ngai bài vị ghi hàng chữ thánh tâm về tước hiệu của người. Hai bên cửa thượng cung treo một đôi câu đối thờ của tác giả là người làng Quan Tử thi đỗ hai khoa Tú tài (Tú kép) triều Nguyễn tên là Trần Danh Súy. Như sau:
藍 山 相 業 存 靈 地
瀘 水 臣 心 對 義 天
Phiên âm:
Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa
Lô thủy thần tâm đối nghĩa thiên.
Là đôi câu đối hay nhất có trong đền, cả ý về sự nghiệp và kết cục của Tả tướng chữ dùng trong tiểu đối. Nghiã là:
Nghiệp tướng Lam Sơn còn linh địa
Lòng “Tôi” Lô thủy có trời hay.
Tòa tiền tế có 05 gian hai dĩ kiểu kiến trúc “tứ trụ lòng thuyền”, “chồng rường” gồm 32 chiếc cột là một kiểu kiến trúc bề thế và vững chắc. Bốn góc nhà đều có chạy đao xối. Nhang án thờ chính vị đặt chính giữa nhà tiền tế, bên trên đặt bát hương công đồng bằng gốm Thổ Hà, hai bên có đồ “lỗ bộ” xếp theo hình “chữ môn” (). Bên trên treo bức hoành bốn chữ “Khai quốc nguyên huân” 開 國 元 勳 nghĩa là công đầu mở nước khó nhọc. Nội dung bức hoành và đôi câu đối trên thâu gọn cả cuộc đời và sự nghiệp làm tướng của ông Trần Nguyên Hãn và cũng là gói trọn cả tâm linh thờ tự về ông.
Tất cả công trình kiến trúc to đẹp như vậy đều là công sức của nhân dân làng Quan Tử 官子 mà địa danh trước đó là xã Sơn Đông 山 東 xây dựng nên. Bản TT-TS của xã Quan Tử kê khai là: “Vị Trần Nguyên Hãn, thời sau khi ngài hóa hiển thánh, làng chúng tôi mới dựng đình thờ ngài”. ( Tư liệu viện TT KHXH Hà Nội FQ 4o 18/13. trang 1197).
Cũng do ngôi đền được khởi dựng từ thời Lê sơ, trùng tu nhiều lần vào đời Nguyễn nên hầu hết các cấu kiện gỗ đều đã xuống cấp nặng nề. Bởi vậy sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Vĩnh Phúc được phê duyệt làm chủ đầu tư tu sửa, tôn tạo. Công việc trước hết là hạ giải công trình cũ, chọn lại những chi tiết còn đủ tốt sử dụng lại. Đồng thời mua gỗ lim (Tên khoa học Erythrophlocum fordu Oliver) từ Lào bổ sung vào phần thiếu hụt của lần tôn tạo này. Kiểu thức vẫn giữ theo nguyên vẹn kiến trúc cũ, gồm cả các họa tiết trang trí. Toàn bộ phần nội thất đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy, màu sắc đỏ tươi hợp với di tích đền tướng.
Năm 2012, công trình được tiếp tục xây lát sân đền  và mở rộng dựng mới thêm hai nhà “tả mạc”, “hữu mạc”, làm hoàn tất nhà tam quan, tu chỉnh lăng đặt hòn đá mài gươm tương truyền là kỉ vật từ thời còn mài gươm nuôi chí lớn bên trong cây đa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trồng khi về thăm, thành một tổng thể công trình kiến trúc uy nghi, hoành tráng, Phần ngoại thất trước đền cải tạo và xây hồ “bán nguyệt”, taọ thành cảnh quan phục vụ các dự án du lịch lịch sử-sinh thái trong tương lai. Và trước hết là phục vụ tuần lễ văn hóa du lịch do tỉnh tổ chức xuân năm 2013.
2. Thờ cúng.
Theo lời khai trong TT-TS cuả lí dịch xã Quan Tử nơi thờ ông gọi là “đình Thượng”. Đó nguyên là cái đồi ngày xưa ông mở trại làm nhà ở đấy, hợp kiểu đất sơn thủy rất là hữu tình, có vẻ nguy nga và có cây cối sầm uất. Nơi ấy cấm giết súc vật, cấm trồng trọt, cấm dân làm nhà ở đàng trước đàng sau.
Trong đền thờ bằng long ngai, bài vị và áo mũ, đai, kiếm. Tuy nhiên trong nhiều năm bài vị thất lạc nên chỉ có ngai không. Mãi đến năm 1988, để chuẩn bị cho cuộc hội thảo Khoa học cấp nhà nước về thân thế và sự nghiệp của ông mới có chương trình đi tìm về. Tuy nhiên cỗ long ngai và bài vị hiện nay hiện đang thờ được đặt gọn trong lòng cỗ long ngai cũ vốn là của khu Đức Lễ xã Sơn Bình xưa thờ ở Rừng Thần, sau khi miếu thờ không còn mới đưa về đặt ở đình Ngõa làng Lai Châu được đem về thờ phụng từ đó đến nay. Thành ra trên điện có hai cỗ long ngai lồng vào nhau và chỉ có một bài vị.
Trong năm, tại đền tế lễ vào ngày sinh là ngày 01 tháng 02 và ngày hiển thánh là 04 tháng 10. Trong hội thảo khoa học năm1988 xác định ngày mất là 26 tháng 02, từ đó nhân dân thôn Đa Cai mới có cúng tế theo ngày đó. Còn ngày 04 tháng 10 là ngày tiệc mùa. Riêng tiệc ngày sinh là ngày “Quốc tế”. Ngày ấy, các quan đầu tỉnh đại diện triều đình về làm lễ tế.
Trong năm có một ngày có lễ rước, đó là ngày 15 tháng 04, rước bài vị từ đền về đình hội sở (đình Bác cổ) để lập “đàn nội” trong ngày tế Kì an. (theo trong Hư. 3423, tư liệu viện TT KH-XH Hà Nội). Từ năm 1946, lễ rước này không còn nữa nguyên do vì tiêu thổ kháng chiến chống Pháp.
                                      L K T
* Tài liệu tham khảo:
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Quốc sử quán triều Nguyễn.
2. Đại nam nhất tống chí.  Tỉnh Sơn Tây.
Quốc sử quán triều Nguyễn.
3. Đại Việt thông sử. Lê Quý Đôn.
4. Sơn Tây tỉnh chí.
5. Hoàng Việt xuân thu sách viết từ thế kỉ 16.
6. Nam phong tạp chí năm 1924.
7 AJ. 1/8 kho Xã chí Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội.
8. Kho TT-TS Viện TT KH-XH Hà Nội.
9. Hương ước làng Quan Tử, tổng Đông Mật huyện Lập Thạch. Tư liệu viên TT KH-XH Hà Nội.
10. Hồ sơ xếp hạng di tích của nhà Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phú.
11. Tư liệu điền dã địa phương.
 * Địa chỉ: Thôn Quan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch. Vĩnh Phúc.
ĐT:  02113828069’
DĐ: 0984550547.
Email: thuyenlk@gmail.com

Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

THÔNG TIN VỀ DI DUỆ TẢ TƯỚNG QUỐC TRẦN NGUYÊN HÃN



THÔNG TIN VỀ DI DUỆ TẢ TƯỚNG QUỐC
TRẦN NGUYÊN HÃN

Lê Kim Thuyên.

Tả tướng quốc Triều vua Lê Thái Tổ (1428-1433) là Trần Nguyên Hãn. Ông là cháu bảy đời của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, cháu bốn đời cuả quan tể tướng đời vua Trần Nghệ Tông (1370-1372). Sinh ngày mùng 01 tháng 02 năm Canh ngọ (1390) tại xã Sơn Đông, sau là xã Quan Tử triều Nguyễn, nay là thôn Đa Cai xã Sơn Đông huyên Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, Mất ngày 26 tháng 02 năm Kỉ dậu (1429), hưởng dương 39 tuổi. Tư liệu đã được Hội thảo Khoa học cấp Nhà nước về “Thân thế và sự nghiệp Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn” tổ chức tại huyện Lập Thạch tháng 10 năm 1988 xác nhận. Ngày nay tại di tích đền Thượng thờ Ông nhân dân và chính quyên xã sở tại vẫn tổ chức lễ dâng hương, tế lễ vào những ngày này. Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới cờ của Bình Định Vương Lê Lợi từ ngay buổi đầu, bên bờ sông Lạc Thủy năm Mậu tuất (1418) được phong chức quan Tư đồ. Tác giả Phan Huy Chú viết “Triều Lê, Thái Tổ khi mới dựng nước bắt đầu đặt ba chức ấy (Trần Hãn làm Tư đồ, Lê Sát làm Tư mã, Đinh Lễ làm Tư không). (Xem Lịch triều Hiến chương loại chí”, “Quan Chức chí”. Bản dịch  NXB KHXH. Hà Nội. Năm 1992. Tập I. Trang  462).
Trải qua 10 năm kháng chiến chống quân Minh, do lập nhiều công lớn nên được thăng trải đến chức Thái úy (năm 1427) đứng đầu hàng quan võ. Trong cuộc hội thề ở phía nam thành Đông Quan tháng 11 năm Đinh mùi (1427), danh sách trong phái đoàn “hội thề” giữa hai bên giữa Bình Định Vương Lê Lợi với quân Minh là Vương Thông, tên ông đứng thứ hai sau tên Bình Định Vương Lê Lợi, sách lịch sử Việt Nam khẳng định “Đủ để kính trọng như thế”.
          Sau khí đăng quang Hoàng đế, Lê Thái Tổ đã phong ông chức Tả tướng quốc, là chức đứng hàng trên so với chức “Hữu tướng quốc” là chức của Thái tử Tư Tề, con trai trưởng của nhà vua. “Công lao và danh vọng của Hãn thật cao tuột”.
Sau đó ít ngày, ông xin về hưu ở quê sinh là xã Sơn Đông. Tháng 02 năm Kỉ dậu (1429), Hoàng đế Lê Lợi có chiếu chỉ “Ra lệnh bắt hữu tướng quốc Lê Hãn để giao quan lại xét hỏi. Lê Hãn tự sát”. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Chính biên. Quyển XV, tờ 20a. Bản dịch tiếng Việt , Tổ biên dich Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, biên dịch và chú giải. Nhà Xuất bản Văn sử Địa Hà Nội năm 1959. Tập IX, trang 20).
Về sự kiên này, đến thế kỉ 18, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) viết sách “Đại Việt thông sử” (bản A 1389. Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội), viết về cái chết của Tả tướng có đoạn nguyên thư như sau: “ …Hốt nhiên đại phong phúc thuyền,  lực sĩ xá nhân tứ thập nhị nhân cập Hãn giai nhược tử. Duy gia đồng nhị nhân phù thủy để ngạn đắc thoát. Sự văn, Thượng chiếu thúc kì thê tử điền sản”. Dịch là : Bỗng nhiên gió lớn nổi lên lật thuyền, 42 người lực sĩ xá nhân cùng ông Hãn đều chết cả. Chỉ có 02 trẻ nhỏ trong nhà nổi lên bơi vào được thoát. Nghe tin vậy, nhà vua xuống chiếu bắt giam vợ và con ông Hãn, thu lại ruộng đất, gia sản.
Mãi đến năm Diên Ninh thứ nhất (1454), vua Lê Nhân Tông mới ban bố những điều đại xá cho cả nước , xét thấy ông Hãn vô tội, nhà vua mới có chiếu giao trả lại ruộng đất, gia sản. Sử của Lê Quý Đôn không thấy chép gì đến vợ và con ông Hãn ở thời kì này, nhưng chắc rằng vợ và con ông cũng được tha ra trong kì đại xá này. Tuy nhiên mọi thông tin từ địa phương Sơn Đông đều không thấy vợ và con ông trở về đây. Bằng cứ là để tưởng nhớ ông nên nhân nền nhà cũ nhân dân đã lập ngôi đền miếu thờ cúng ông. Mục “Đền miếu” trong sách “Đại nam nhất thống chí” của Quốc Sử quán triêu Nguyễn chép “Đền thần Tả tướng họ Trần ở xã Sơn Đông huyện Lập Thạch. Thần họ Trần húy là Nguyên Hãn, người xã này”. (Bản dich. NXB KHXH Hà Nội năm 1971. Tập IV. Trang 228). Theo nguyên văn trong “Vĩnh yên phong thổ kí” của tuần phủ tỉnh Vĩnh Yên Nguyễn Văn Bân đăng trên “Nam Phong tạp chí” viết năm 1924, có đoạn như sau: “Lập Thạch huyện, Sơn Đông xã Trần Nguyên Hãn phù Lê Thái Tổ vi Khai Quốc Công Thần, vi xã dân phụng vi Phúc thần, nhân cố trạch khởi từ miếu”, nghĩa là: Trần Nguyên Hãn người xã Sơn Đông huyện Lập Thạch, giúp vua Lê Thái Tổ là công thần  khai quốc, dân xã thờ làm Phúc thần, nhân nền nhà cũ dựng nên đền miếu. Nơi “cố trạch” (nhà cũ) chính là điểm tọa lạc ngôi đền thờ Tả Tướng Quốc ngày nay. [Nguyễn Văn Bân người xã Hữu Bằng huyên Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thành phố Hà Nội, thi đỗ tiến sĩ khoa Tân sửu niên hiệu Thành Thái 13 (1901)].
Bản khai Thần tích-Thần sắc của lí dịch làng Quan Tử năm 1938 cho biết : “ Nơi đình Thượng là cái đồi ngày xưa Ngài mở trại làm nhà ở đấy, hợp kiểu đất mãnh hổ xuất lâm, sơn thủy rất là hữu tình”. ( Xem TT-TS tư liêu Viện TT-KHXH Hà Nội FQ40 18/13 trang 1198) . “Từ bấy (Tức từ năm mất 1429, LKT) nhân dân lập đền phụng sự đến giờ, các triều đại đều có sắc phong, thờ cúng rất là linh ứng” (Tài liệu đã dẫn trang 1196).
Cũng do vậy mà ruộng đất của Tả tướng do làng xã Sơn Đông, được dùng làm “công điền, công thổ”, trở nên một phương thức xử dụng ruộng đất mới “Ruộng đất công” trên diện tích cũ ở nơi đây. Từ đó đến năm năm 1935 thì được ghi vào Hương ước của làng Quan Tử như sau:
Điều thứ 46.
Trong làng không có nhiều công thổ, công điền để quân cấp cho dân, Chỉ có:
1. Ruộng công ở xứ Bồ Tu là 17m, 01 thước.
2.Xứ Trằm Xoan 14 mẫu, 01 sào, 09 thước.
3. Ruộng lộc điền của đức Lê Tả tướng ở xứ Thanh Lâu 05 sào, 03 thước.
4. Ở địa phận xã Xuân Lôi 14 mẫu 06 sào 04 thước.
5. Ở địa phận xã Sơn Bình 17 mẫu, 06 sào, 10 thước.
6. Ruộng Hậu thần ở xứ Mả Đà 04 mẫu, 02 sào, 04 thước.
7. Xứ Đồng Mống 02 mẫu, 06 sào , 10 thước.
8. Cái ao làng có 08 sào 02 thước.
Các ruộng ao ấy, hàng năm Hương hội đem yết thi đấu giá lấy tiền xung quỹ.
Điều thứ 47.
Ruộng Hậu thần ở xứ Đông Hồ có 03 sào 08 thước thời để làm ruộng bánh thờ. (Bạch viên bính: bánh dày trắng.LKT)
Ruộng hậu Phật ở Đông Lâm 05 mẫu, 02 sào 06 thước. Ở chùa Vĩnh Phúc có 01 mẫu 04 sào thời để làm hương đăng 02 chùa ấy.
Ao công là Ao Cá có 01 mẫu, 03 sào, 10 thước để làm hương đăng ở đình Thượng.(tức đền Trần Nguyên Hãn. LKT).
Điều thứ 49.
Khi đấu giá, ai cao giá hơn thì được thầu, trong phong bì mỗi xứ phải nộp 01 $ làm tin, các giấy ấy giữ để hương hội lập biên bản lưu chiểu”.
(Trích trong Hương ước làng Quan Tử.Tư liệu viện TT KH XH Hà Nội. Số đăng kí Hư. 3423).
Các loai ruộng kể trên trừ số ruộng chùa, còn đều là ruộng “quan điền” của Tả tướng quốc còn tồn tại đến cách mạng tháng 08 năm 1945.
Như vậy là có hai tài liệu về Trần Nguyên Hãn có độ tin cậy khoa học sau vụ “chìm thuyền” ở bến Đông Hồ tháng 02 năm Kỉ dậu (1429) :
- Một là di tích ngôi đền Tả tướng do dân xã Sơn Đông xây dựng trên nền nhà cũ để thờ cúng tưởng lệ về công đức của Người.
- Hai là các văn bản về phương thức sử dụng ruộng đất của Trần Nguyên Hãn để lại sau khi được minh oan, gia đình con cháu không có người nhận, biến thành ruộng đất công của làng xã.
Đó là những thực tế để minh chứng về gia đình, di duệ Trần Nguyên Hãn không còn ai ở lại Sơn Đông từ sau vụ “chìm thuyền” năm 1429 và cho đến ngày nay.
Vì vậy mà hiện nay (nhất là từ sau năm 1988, là năm có cuộc Hội thảo Khoa học cấp nhà nước về thân thế và sự nghiệp của Trần Nguyên Hãn tại huyện Lập Thạch) có nhiều người họ Trần các nơi về xã Sơn Đông nhận là di duệ của Trần Nguyên Hãn, trở thành một vấn đề xã hội, tâm linh.
Gần đây trên mạng thông tin xã hội (mạng Google), có đăng tải một bản gia phả về gia đình của Tả tướng quốc trên Website về Trần Nguyên Hãn, như sau:
Chi tiết gia đình
Là con của Thuần Đức
Đời thứ 11
Người trong gia đình
Tên Trần Nguyên Hãn.
………………………
Xin dẫn nguyên văn như sau:
“Theo gia phả các chi họ ở xã Sơn Đông-Việt Trì-tỉnh Phú Thọ, ông Trần Thanh San (?.LKT) ghi lại trong cuốn gia phả tộc Trần Nguyên Thiên Nghệ Tĩnh trang 61&62 cho biết:
Tổ Trần Nguyên Hãn có ba bà vợ:
- Bà Cả (Không ghi tên) người làng Cao Phong, xã Văn Quán, nay thuộc xã Sơn Đông. Bà sinh hạ được một người con trai có tên là Trần Doãn Hữu. Tự là Trung Khang. Trước khi ông Trần Nguyên Hãn xuống thuyền về Kinh (theo nệnh của triệu hồi của vua Lê Lợi) , Ông cho mẹ con Bà chạy trốn vào rừng Thần; sau trở lại Sơn Đông (chi họp Trần hiện nay tại Quan Tử là hậu duệ của tổ Trần Doãn Hữu) (do tôi gạch dưới LKT).
- Vợ thứ hai của Tổ Trần Nguyên Hãn là bà Lê Thị Tuyến (theo gia phả Minh Nông); Ông Bà sinh hạ hai người con trai, người thứ nhất là Trần Trung Khoản; Người thứ hai là Trần Đăng Huy, tự là Trần Trung Lương. Khi Trần Nguyên Hãn xuống thuyền về kinh, ông cho ba mẹ con bà Tuyến chạy sang trốn sang làng Kẻ Nú, phủ Tam Đới, huyện Phù Khang, trấn Tây Sơn. Sau người con lớn (Trần Trung Khoản) tiếp tục bỏ đi và đổi ra họ Quách. Gia phả chi họ Trần ở thôn Hồng Hải-Minh Nông-thành phố Việt Trì ghi: “Tự Trung Khoản nhất lang nhi viễn chi Hoàng gia tôn phái Quách thị” và tổ Trần Đăng Huy, Tự Trung Lương đổi sang họ Đào. Hậu duệ hiện nay là các chi họ ở vùng Bạch Hạc, Minh Nông , Việt Trì-tỉnh Phú Thọ.
- Bà vợ thứ ba của Tổ Trần Nguyên Hãn, theo truyền thuyết ở xã Sơn Đông và báo cáo tham luận ở cuộc hội thảo cấp nhà nước tháng 10/1988 tại huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc, bà có tên là Chúa Lối, tổng Văn Bình xưa. Khi ông Trần Nguyên Hãn về hưu đi nhận ruộng gặp Bà và thành vợ chồng. chỉ đem theo Bà Ba và con nhỏ. Theo sách “Lê Triều Thông Sử” của Lê Quý Đôn viết: khi ông Trần Nguyên Hãn tự trầm mình thì người ta cứu được một hài đồng tử. sau đó, Lê Lợi bắt mẹ con Bà vào quản thúc tại kinh thành Thăng Long, tịch thu gia sản của ông”.
Đó là thông tin mới công bố ngày 17 tháng giêng  năm 2010 trên trang gia phả do Trần Phước lập và giữ bản quyền. có tên miền http//WWW.vietnamgiapha.com, chép về Trần Nguyên Hãn.
Là người địa phương, lại có trên 50 năm theo dõi về đề tài nay, trước hết theo thông tin trên, xin đính chính những sai lầm của các tác giả đã công bố trong bài.  Về:
1. Các địa danh đơn vị hành chính:  Cao phong, Văn Quán là địa danh của thời hiện tại. Đời Lê gọi Cao Phong là xã Thạch Lỗi, sau đổi là xã Hạ Phan gồm hai làng Phan Dư, Phan Lãng xã Cao Phong bây giờ, thuộc huyện Sông Lô.
Văn Quán cũng là địa danh cấp xã của thời hiện tại. Bao gồm hai thôn Lai Châu và Sơn Bình. Xã Sơn Bình (đời Lê có địa danh là Sơn Tây) có khu Đức Lễ là nơi có địa điểm “Rừng Thần”, một căn cứ của Trần Nguyên Hãn lập ra năm 1426. Sau khi ông mất đi thì dân xã ở đây lập miếu thờ Ông  ngay trên nền đồn lũy cũ, nên gọi nơi này là “Rừng Thần”, Vậy “Rừng thần” là địa danh chỉ xuất hiện khi ở đây có ngôi đền thờ Ông. Hiện còn ngọc phả và sắc phong do nhân dân địa phương xã Văn Quán lưu giữ.
Cao Phong và Văn Quán là địa danh cấp xã cũng như xã Sơn Đông. Không có “ làng Cao Phong, xã Văn Quán, nay thuộc xã Sơn Đông”, cũng không có tổng Văn Bình như trong bài mà tác giả đã viết. Điều đó chứng tỏ tác giả chưa thông hiểu gì về lịch sử địa lí miền đất này.
Để tham khảo đối chiếu, xin giới thiệu bộ Địa chí đời Gia Long “Các tổng xã danh bị lãm” do Dương Thị The – Phạm Thị Hoa dịch và biên soạn là “Tên làng xã Việt nam đầu thế kỉ XIX”, NXB KHXH Hà Nội 1981 để tác giả Website trên tự kiểm chứng và đính chính.
2. Thông tin về Trần Nguyên Hãn có 03 bà vợ là sai sự thật. Trong tài liệu lịch sử của nhà bác học Lê Quý Đôn chỉ thấy nói đến vợ và con Ông không ghi số lượng, còn  như từ sách “ Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc Sử quán triều Nguyễn từ thế kỉ 19, được Tổ biên dịch Ban nghiên cứu Văn Sử Địa thuộc Viện sử học biên dịch, nhà Xuất bản Văn Sử Địa xuất bản tháng 02 năm 1959 thì không thông tin gì về vợ và con Ông. (xem tập 09, trang20)
Các tài liệu điền dã cùng truyền thuyết về Trần Nguyên Hãn có ba bà vợ ở miền nam huyện Lập Thạch như các xã Sơn Đông, Cao Phong, Văn Quán thì đều không thấy có. Duy chỉ có một nghi vấn đặt ra là bà vợ của ông có thể là người làng Phan Lãng là do ông sinh ra và trưởng thành ở đất Phan Lãng, tức là đất địa đầu xã Sơn Đông cho đến ngày nay. Dù sao cũng chỉ là nghi vấn khi làm tư liệu địa phương của nhóm tác giả nghiên cứu về Ông mà thôi. Nên thông tin cho rằng bà vợ cả của ông “là người Phan Lãng” chạy vào “Rưng thần”, bà vợ hai Lê Thị Tuyến của ông chạy sang trốn sang làng Kẻ Nú, phủ Tam Đới, huyện Phù Khang, trấn Tây Sơn  là không có thật. Xét về mặt địa lí thì Sơn Bình cũng như Kẻ Nú chỉ cách ngôi nhà của Trần Nguyên Hãn không quá 03 km đường chim bay, chỉ có giá trị chạy trốn của một cuộc càn quét hơn là sự ẩn náu truy tìm của một nhà nước chuyên chính đang cực mạnh.
3. Còn viết rằng “Chi họ Trần hiện nay tại Quan Tử là hậu duệ của tổ Trần Doãn Hữu” lại là sự nhầm lẫn, không đúng. Cả hai bản gia phả họ Trần hiện còn ở xã Sơn Đông xưa mà các thành viên họ Trần làng Quan Tử sao chụp chuyển cho tôi cũng như việc chi trưởng họ Trần đang cư trú ở Tuyên Quang thì đều không thấy có nhân vật Trần Doãn Hữu.( “Hưu” dấu ngã).
Họ Trần ở thôn Quan Tử hiện nay (Ở Gốm cũng như ở Tuyên Quang) chỉ thờ cúng từ vị “Thủy Tổ” trở xuống là Trần Doãn Hựu, (“Hưu” dấu nặng), thượng thư bộ Lại đời Hồng Đức (1470-1497). Theo bia TS Văn miếu Hà Nội ông Doãn Hựu thi đỗ Đệ tam giáp Đồng TS xuất thân khoa Mậu tuất năm Hồng Đức thứ 09 đời vua Lê Thánh Tông (1478), danh sách thứ 37 trong số 50 vị thi đỗ ở bảng này. (bia số 06). Các bia văn chỉ huyện Lập Thạch (xem “Lập Thạch huyện Văn từ TS bi”, No.15503 Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội), Bia văn chỉ làng Quan Tử nay còn đặt trong miếu thờ Đỗ Khắc Chung (xem “Tiên hiền liệt vị”, No.15460 viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội) cùng các sách Đăng Khoa Lục lưu trữ ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội thì tên ông đều ghi chép thống nhất là Trần Doãn Hựu (“Hưu”dấu nặng).
Vậy là thông tin về ông Trần Doãn Hữu (Hưu dấu ngã) do các hậu duệ thờ cúng ở Quan Tử là không có thực. Và do vậy các em của ông (cùng cha khác mẹ) dẫn ra trong bài đều phải thẩm định lại trên cơ sở những bản gia phả gốc.
Có ý kiến cho rằng Trần Doãn Hựu (“Hưu”dấu nặng) là con của Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn cũng là điều khiên cưỡng. Vì theo như bản sách “Lịch triều đăng khoa bị khảo” của TS Phan Huy Ôn (bản A.485/1. tờ 56.) thì Doãn Hựu thi đỗ TS năm 27 tuổi, cũng tức là ông sinh năm 1452 là năm Nhâm thân, sau năm mất của Tả tướng quốc (ngày 26 tháng 02 năm Kỉ dậu 1429) là 23 năm. Hồ sơ xếp hạng ngôi từ đường họ Trần làng Quan Tử (xếp hạng cấp Tỉnh –Thành phố) cũng ghi về nhân vật được thờ là Trần Doãn Hựu. (Hưu dấu nặng). Chẳng lẽ người đã chết tới 23 năm lại vẫn còn “sinh con” được chăng ?
Có một thực tế là trong hai bản gia phả họ Trần hiện nay do con cháu lưu giữ, có bản tờ bìa ghi là Trần gia phả kính, hai bên ghi hai hàng chữ là:
Chí tiền nhân chi kí vãng
Khải hậu thế chi dịch tri.
Nghĩa là:
Gia phả họ Trần như gương soi.
Ghi lại việc người xưa đã qua
Mở cho đời sau biết mà không thay đổi.
Đó có thể coi là lời giáo huấn cho con cháu đời sau vậy.
Nội dung từ tờ thứ hai là gia phả của  chi thứ hai chép từ Trần Đạo Nguyên trở xuống, khởi đầu có các hàng chữ nay theo nguyên thư phiên âm và dịch là:
Trần gia phả văn
Mộc chi hữu bản, bản cố tức chi diệp mậu. Hà chi hữu nguyên, nguyên viễn tức chi lưu hệ. Phàm quyết nhân sinh khởi bất do hồ. Truy sóc Trần tộc Thủy Tổ Thượng thư dĩ lai, trữ trục khai tiên, tụ thành nhất tộc. Kì vi minh đức dã, viễn hĩ.
Dịch là:
Cây tất có gốc, gốc bền thì cành lá tươi tốt. Sông tất có nguồn, nguồn xa thì các nhánh quấn quýt. Phàm trong nhân sinh đều như thế cả. Tìm ngược trở lại, họ Trần từ vị Thủy Tổ là Thượng thư đến nay, đan dệt với nhau họp thành một họ, cũng là để sáng công đức vậy, sâu xã lắm!
Trong đoạn văn trên ở đầu gia phả rất đáng lưu ý ở câu cuối: “ Kì vi minh đức dã, viễn hĩ”. Đó là câu giáo huấn con cháu đời sau hiểu rõ ý nghĩa sâu sa của việc vì sao mà Trần Doãn Hựu lại lập ra một họ Trần mới ( không theo họ Trần cũ của cha ông) mà ông là vị Tổ mở đầu: Thủy tổ. Một việc làm rất nhân văn, nay có giá trị là một thực thể góp phần vào việc nghiên cứu về làng xã, về văn hóa các dòng họ.

                                     Ảnh tờ 2 gia phả họ Trần chi thứ 02 chép về Trần Doãn Hựu

Thực tế là trước khi cha mẹ Trần Nguyên Hãn lên lánh nạn ở địa đầu xã Sơn Đông thì ở đó đã có họ Trần. Khi Trần Nguyên Hãn “chìm thuyền” năm 1429 thì chỉ có Ông và gia đình vợ và con bị di lụy. Còn họ Trần ở Sơn Đông không ảnh hưởng gì. Triều đình vua Lê Thái Tổ biết vậy và cho đến triều đình Vua Lê Thánh Tông cũng biết vậy, nên khoa thi năm 1478 ông Doãn Hựu ra thi vẫn khai lí lịch là họ Trần và ông đã thi đỗ. Danh sách ghi trên bia Văn Miếu (Hà Nội) và các sách Đăng khoa lục đời sau (Tư liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội),  đều ghi là họ Trần tên là Doãn Hựu không hề có sự thay đổi. Sau Ông lại làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại là chức quan ở đầu hàng tòng nhị phẩm giữ công việc quan tước, chọn bổ, xét hạch, thăng giáng và các việc điền bổ (chức khuyết), cấp cho bổng lộc, tức là làm công việc tổ chức của triều đình.
Tuy nhiên thì dù sao ông cũng là người họ Trần ở trang Sơn Đông, nơi mà trước đó mới chỉ hơn 50 năm vẫn còn “nhãn tiền” vụ án “Trần tộc” động trời. Khiến ông không khỏi có sự lo xa cho mình và cho gia tộc với chức quan cũng rất cao sang trong triều đình ở nơi ông. Bởi vậy, để cắt đứt với mọi quá khứ, để cho cuộc sống yên lành, tránh mọi hiềm nghi trong chốn quan trường, ông mới lập ra một họ Trần mới bằng cách tập hợp tất cả người trong làng xã có họ Trần thành họ do ông là “Thủy Tổ” (ông Tổ mở đầu) (nghĩa là trên đó không còn có ai). Và để tránh con cháu đời sau sao nhãng, trong phần mở đầu gia phả họ Trần mới có lời “phả văn” như trên.  Họ Trần này của Trần Doãn Hựu vẫn quây  quần sinh tụ trên 500 năm nay và vẫn thờ tự Trần Doãn Hựu là “Thủy Tổ”, vậy sao lại kết luận họ Trần ở làng Quan Tử ngày nay là di duệ của Tả tướng Trần Nguyên Hãn được!
Xin nhắc lại: Truyền thuyết ở Sơn Đông chưa bao giờ nghe nói Trần Nguyên Hãn có ba bà vợ (Tôi gạch dưới.LKT). Hai bản ngọc phả ở đền Thượng và ở khu Đức Lễ mà chúng tôi chép được từ thập kỉ 90 của thế kỉ XX không hề chép gì về các bà vợ của ông. Nên thông tin về Trần Nguyên Hãn có ba bà vợ là thông tin thiếu cơ sở khoa học.Thông tin về bà vợ thứ ba của Trần Nguyên Hãn là “Bà Chúa Lối” là không thực tế. Trong hội thảo khoa học về “Thân thế và sự nghiệp của Trần Nguyên Hãn” ở cấp quốc gia tháng 10 năm 1988 tại trụ sở UBND huyện Lập Thạch không hề có báo cáo nào về “Bà Chúa Lối” người tổng Văn Bình là vợ thứ ba của Trần Nguyên Hãn như thông tin trong  bài. (Cũng đính chính là huyên Lập Thạch không có tổng Văn Bình). Có lẽ đó là một thông tin đã theo kiểu “gia dĩ truyền ngôn” mà viết (!). Về mục này xin xem “kỉ yếu Trần Nguyên Hãn” Sở VH-TT tỉnh Vĩnh Phú đã xuất bản.
Vậy “Bà Chúa Lối” là ai ?
Để chuẩn bị cho Hội thảo, đoàn chúng tôi gồm ba người là anh Nguyễn Chiến Thắng, phụ trách Tuyên giáo ĐW xã Sơn Đông, chị Văn Kim Chung cán bộ nhà Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phú cùng lên điền dã ở xã Xuân Lôi, tức là làng có di tích về “Bà Chúa Lối”.
Tại đây, trong khu vườn nhà ông Nguyễn Thiệu Thăng ở thôn Cây Bún có một  ngôi đền thờ “Bà chúa Lối”, cùng với bản chép lại văn bia về bà có tên là “Hoàng Việt Thái Chiêu mộ chí”, là văn bia mộ về bà. Nội dung chép bà có tên đầy đủ là Nguyễn Thị Ngọc Lãng, là cháu nội của quan Thượng thư bộ Hộ Nguyễn Thiệu Tri đời Lê Hồng Đức. (Nguyễn Thiệu Tri thi đỗ TS cùng khoa với Trần Doãn Hựu). Bà là thứ phi của Mạc Đăng Dung triều Mạc, vào những thập niên thứ 03, thứ 04 của đầu thế kỉ 16, cách xa hàng 100 năm nên chẳng có liên quan gì tới Trần Nguyên Hãn. Trong hội thảo Khoa học về nhà Mạc ở Vĩnh Phúc năm 2012, tư liệu đó đã được dòng họ Mạc công bố. Lại thêm một bằng chứng xác nhận bản vietnamgiapha.com do tác giả là Trần Phước lập ra đăng tải trên các Website về Trần Nguyên Hãn là sự chắp vá thiếu độ tin cậy khoa học.
Trong bài tác giả còn viết: “Theo sách “Lê Triều Thông Sử” của Lê Quý Đôn viết: khi ông Trần Nguyên Hãn tự trầm mình thì người ta cứu được một hài đồng tử. sau đó, Lê Lợi bắt mẹ con Bà (tức bà chúa Lối LKT) vào quản thúc tại kinh thành Thăng Long, tịch thu gia sản của ông.” Nhà bác học Lê Quý Đôn không hề viết như thế. Theo nguyên thư cụ Đôn chỉ viết có hai câu như sau:
- Về việc thuyền chìm:  “Hốt nhiên đại phong phúc thuyền. Lực sĩ xá nhân tứ thập nhị nhân cập Hãn giai nhược tử. Duy gia đồng nhị nhân phù thủy để ngạn đắc thoát”. Nghĩa là : Bỗng nhiên gió lớn nổi lên, thuyền chìm.42 lực sĩ xá nhân cùng ông Hãn đều chết cả. Chỉ có hai trẻ nhỏ trong nhà nổi lên bơi vào bờ là được thoát.
- Về gia sản vợ và con của Trần Nguyên Hãn: “Sự văn, Thượng chiếu thúc kì thê tử điền sản”. Nghĩa là : Nghe tin, nhà vua xuống chiếu bắt giam vợ và con, tịch thu gia sản ruộng đất. Ngoài ra không có chữ nào khác nữa.
Như vậy thì vợ và con cuả Trần Nguyên Hãn đều chỉ bị vua Lê Lợi giam cầm, sau khi ông được minh oan thì đều còn sống và đã đã được tha ra.
Về vấn đề này, bài của tác giả Trần Nhật Độ đăng trên báo Văn Hóa số sau tết Bính tí (1996) có tiêu đề “ Một cụm di Lịch sử-Văn hóa và cách mạng cần được xếp hạng và bảo vệ” (xem trang 03, mục Kinh tế-Xã hội). Sau đó là báo Nhân Dân  cuối tuần số 29 (389) ra ngày 14 -7- 1996 trong mục Đất nước-Con người viết về “Dòng dõi Trần Nguyên Hãn”, bài của Nguyễn Ngọc Hạnh, cùng có chung thông tin như sau: Trần Quốc Duy hiệu Pháp Độ, là con của anh hùng dân tộc Trần Nguên Hãn đời Lê. Sau khi cha được minh oan thì Trần Quốc Duy được vua Lê Thánh Tông mời ra làm quan ở chức “Thiết khoa chế lễ” là chức quan chuyên trông coi lễ nghi kỉ cương trong triều. Sau 28 năm trong ghế quan trường ông xin thôi việc. Sau đó về Thanh Hóa nghỉ ngơi 06 năm, rồi ông cùng con trai thứ ba về định cư lập nghiệp tại xã Phú Hữu huyện Đông Thành (nay là xã Nhân Thành huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An). Ở đây hai cha con ông lập ấp khai hoang. Ông đã cùng một người họ Phạm chiêu mộ dân nghèo phiêu tán cụm thành làng sinh cơ lập nghiệp, mở ra một vùng kinh tế trù phú, dân cư đông đúc trên một diện tích rộng lớn thuộc tổng Thái Xá. (nay nằm ở phía đông hai huyện Diễn Châu, Yên Thành).
Trần Quốc Duy không chỉ lo cho dân về kinh tế đời sống, mà còn chăm lo đến việc học hành, khuyến khích việc học, mở trường lớp cho con em trong vùng. Những con em nghèo mà thông minh được nuôi cho ăn học.Một số người sau đó đã hiển đạt. Chính vì những cống hiến đó mà sau khi ông qua đời, để tỏ lòng biết ơn , nhân dân địa phương đã tôn ông làm Thành hoàng làng xã. Triều Lê Hi Tông chính thức cấp công điền thờ cúng. Các triều đại kế tiếp nhau đều có sắc phong. Nay còn lưu giữ được sắc phong đời vua Khải Định.
Các bài báo đều có nhận xét chung, hoàn cảnh xuất thân của Trần Quốc Duy là rất vẻ vang. Hậu duệ của ông đã phát triển ngót 200 chi họ hầu khắp các huyện thuộc ba tỉnh Thanh- Nghệ-Tĩnh. Qua các thời đại có nhiều đời vinh hiển, có công với đát nước như thời cần vương có con cháu tham gia, trong đó, có nhà thờ họ ở Đan Trung là cơ sở của phong trào cần vương.
Thời Lê trung hưng có Trần Đăng Dinh làm quan đến chức tể tướng, Trần Khiêm Thủ có tước quận công.
Thời Tây Sơn, nhiều con cháu tham gia đạo quân của vua Quang Trung. Thời Nguyễn có Trần Đình Phong thi đỗ TS khoa Kỉ mão năm Tự Đức 32 (1879). Thời đại ngày nay có đồng chí Trần Phú tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Trần văn Cung ( một yếu nhân của tổ chức thanh niên cách mạng đồng chí Hội), Trần Phúc, Trần Đình Kiều. Sau này còn có Thượng tướng Trần văn Quang (chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt nam). Thiếu tướng Trần Ân (nguyên phó tư lệnh Quân khu IV), Thiếu tướng Trần văn Trí.
Anh hùng được phong trong hai cuộc kháng chiến có anh hùng liệt sĩ Trần Can, anh hùng Trần Chử, anh hùng Trần văn Trí.
Nhiều con cháu là cán bộ trung cao cấp của Đảng, Nhà nước và quân đội. Nhiều người là nhà khoa học, giáo sư, tiến sĩ.
Nhà thờ Đan Trung (xã Diễn Thắng huyện Diễn Châu) thờ bài vị Trần Pháp Độ được làm hồ sơ cấp bằng di tích Lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia.
Đây là một phả hệ về dòng dõi Trần Nguyên Hãn như sau:

         
Sơn Đông. Ngày 08 tháng 04 năm 2013.

Lê Kim Thuyên
Nhà Nghiên cứu Lịch sử địa phương
Hội viên hội Khoa học Lịch sử tỉnh Vĩnh Phúc.
Hội viên hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc.
Người quê làng Quan Tử xã Sơn Đông.
Địa chỉ liên hệ: Thôn Quan Tử, Xã Sơn Đông, Huyện Lập Thạch, Tĩnh Vĩnh Phúc.
ĐT: 02113.828.069.
DĐ:  0984550547