Thứ Năm, 12 tháng 9, 2013

THÔNG TIN VỀ DI DUỆ TẢ TƯỚNG QUỐC TRẦN NGUYÊN HÃN



THÔNG TIN VỀ DI DUỆ TẢ TƯỚNG QUỐC
TRẦN NGUYÊN HÃN

Lê Kim Thuyên.

Tả tướng quốc Triều vua Lê Thái Tổ (1428-1433) là Trần Nguyên Hãn. Ông là cháu bảy đời của Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải, cháu bốn đời cuả quan tể tướng đời vua Trần Nghệ Tông (1370-1372). Sinh ngày mùng 01 tháng 02 năm Canh ngọ (1390) tại xã Sơn Đông, sau là xã Quan Tử triều Nguyễn, nay là thôn Đa Cai xã Sơn Đông huyên Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, Mất ngày 26 tháng 02 năm Kỉ dậu (1429), hưởng dương 39 tuổi. Tư liệu đã được Hội thảo Khoa học cấp Nhà nước về “Thân thế và sự nghiệp Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn” tổ chức tại huyện Lập Thạch tháng 10 năm 1988 xác nhận. Ngày nay tại di tích đền Thượng thờ Ông nhân dân và chính quyên xã sở tại vẫn tổ chức lễ dâng hương, tế lễ vào những ngày này. Ông tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dưới cờ của Bình Định Vương Lê Lợi từ ngay buổi đầu, bên bờ sông Lạc Thủy năm Mậu tuất (1418) được phong chức quan Tư đồ. Tác giả Phan Huy Chú viết “Triều Lê, Thái Tổ khi mới dựng nước bắt đầu đặt ba chức ấy (Trần Hãn làm Tư đồ, Lê Sát làm Tư mã, Đinh Lễ làm Tư không). (Xem Lịch triều Hiến chương loại chí”, “Quan Chức chí”. Bản dịch  NXB KHXH. Hà Nội. Năm 1992. Tập I. Trang  462).
Trải qua 10 năm kháng chiến chống quân Minh, do lập nhiều công lớn nên được thăng trải đến chức Thái úy (năm 1427) đứng đầu hàng quan võ. Trong cuộc hội thề ở phía nam thành Đông Quan tháng 11 năm Đinh mùi (1427), danh sách trong phái đoàn “hội thề” giữa hai bên giữa Bình Định Vương Lê Lợi với quân Minh là Vương Thông, tên ông đứng thứ hai sau tên Bình Định Vương Lê Lợi, sách lịch sử Việt Nam khẳng định “Đủ để kính trọng như thế”.
          Sau khí đăng quang Hoàng đế, Lê Thái Tổ đã phong ông chức Tả tướng quốc, là chức đứng hàng trên so với chức “Hữu tướng quốc” là chức của Thái tử Tư Tề, con trai trưởng của nhà vua. “Công lao và danh vọng của Hãn thật cao tuột”.
Sau đó ít ngày, ông xin về hưu ở quê sinh là xã Sơn Đông. Tháng 02 năm Kỉ dậu (1429), Hoàng đế Lê Lợi có chiếu chỉ “Ra lệnh bắt hữu tướng quốc Lê Hãn để giao quan lại xét hỏi. Lê Hãn tự sát”. (Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Chính biên. Quyển XV, tờ 20a. Bản dịch tiếng Việt , Tổ biên dich Ban nghiên cứu Văn Sử Địa, biên dịch và chú giải. Nhà Xuất bản Văn sử Địa Hà Nội năm 1959. Tập IX, trang 20).
Về sự kiên này, đến thế kỉ 18, nhà bác học Lê Quý Đôn (1726-1784) viết sách “Đại Việt thông sử” (bản A 1389. Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội), viết về cái chết của Tả tướng có đoạn nguyên thư như sau: “ …Hốt nhiên đại phong phúc thuyền,  lực sĩ xá nhân tứ thập nhị nhân cập Hãn giai nhược tử. Duy gia đồng nhị nhân phù thủy để ngạn đắc thoát. Sự văn, Thượng chiếu thúc kì thê tử điền sản”. Dịch là : Bỗng nhiên gió lớn nổi lên lật thuyền, 42 người lực sĩ xá nhân cùng ông Hãn đều chết cả. Chỉ có 02 trẻ nhỏ trong nhà nổi lên bơi vào được thoát. Nghe tin vậy, nhà vua xuống chiếu bắt giam vợ và con ông Hãn, thu lại ruộng đất, gia sản.
Mãi đến năm Diên Ninh thứ nhất (1454), vua Lê Nhân Tông mới ban bố những điều đại xá cho cả nước , xét thấy ông Hãn vô tội, nhà vua mới có chiếu giao trả lại ruộng đất, gia sản. Sử của Lê Quý Đôn không thấy chép gì đến vợ và con ông Hãn ở thời kì này, nhưng chắc rằng vợ và con ông cũng được tha ra trong kì đại xá này. Tuy nhiên mọi thông tin từ địa phương Sơn Đông đều không thấy vợ và con ông trở về đây. Bằng cứ là để tưởng nhớ ông nên nhân nền nhà cũ nhân dân đã lập ngôi đền miếu thờ cúng ông. Mục “Đền miếu” trong sách “Đại nam nhất thống chí” của Quốc Sử quán triêu Nguyễn chép “Đền thần Tả tướng họ Trần ở xã Sơn Đông huyện Lập Thạch. Thần họ Trần húy là Nguyên Hãn, người xã này”. (Bản dich. NXB KHXH Hà Nội năm 1971. Tập IV. Trang 228). Theo nguyên văn trong “Vĩnh yên phong thổ kí” của tuần phủ tỉnh Vĩnh Yên Nguyễn Văn Bân đăng trên “Nam Phong tạp chí” viết năm 1924, có đoạn như sau: “Lập Thạch huyện, Sơn Đông xã Trần Nguyên Hãn phù Lê Thái Tổ vi Khai Quốc Công Thần, vi xã dân phụng vi Phúc thần, nhân cố trạch khởi từ miếu”, nghĩa là: Trần Nguyên Hãn người xã Sơn Đông huyện Lập Thạch, giúp vua Lê Thái Tổ là công thần  khai quốc, dân xã thờ làm Phúc thần, nhân nền nhà cũ dựng nên đền miếu. Nơi “cố trạch” (nhà cũ) chính là điểm tọa lạc ngôi đền thờ Tả Tướng Quốc ngày nay. [Nguyễn Văn Bân người xã Hữu Bằng huyên Thạch Thất tỉnh Sơn Tây, nay thuộc thành phố Hà Nội, thi đỗ tiến sĩ khoa Tân sửu niên hiệu Thành Thái 13 (1901)].
Bản khai Thần tích-Thần sắc của lí dịch làng Quan Tử năm 1938 cho biết : “ Nơi đình Thượng là cái đồi ngày xưa Ngài mở trại làm nhà ở đấy, hợp kiểu đất mãnh hổ xuất lâm, sơn thủy rất là hữu tình”. ( Xem TT-TS tư liêu Viện TT-KHXH Hà Nội FQ40 18/13 trang 1198) . “Từ bấy (Tức từ năm mất 1429, LKT) nhân dân lập đền phụng sự đến giờ, các triều đại đều có sắc phong, thờ cúng rất là linh ứng” (Tài liệu đã dẫn trang 1196).
Cũng do vậy mà ruộng đất của Tả tướng do làng xã Sơn Đông, được dùng làm “công điền, công thổ”, trở nên một phương thức xử dụng ruộng đất mới “Ruộng đất công” trên diện tích cũ ở nơi đây. Từ đó đến năm năm 1935 thì được ghi vào Hương ước của làng Quan Tử như sau:
Điều thứ 46.
Trong làng không có nhiều công thổ, công điền để quân cấp cho dân, Chỉ có:
1. Ruộng công ở xứ Bồ Tu là 17m, 01 thước.
2.Xứ Trằm Xoan 14 mẫu, 01 sào, 09 thước.
3. Ruộng lộc điền của đức Lê Tả tướng ở xứ Thanh Lâu 05 sào, 03 thước.
4. Ở địa phận xã Xuân Lôi 14 mẫu 06 sào 04 thước.
5. Ở địa phận xã Sơn Bình 17 mẫu, 06 sào, 10 thước.
6. Ruộng Hậu thần ở xứ Mả Đà 04 mẫu, 02 sào, 04 thước.
7. Xứ Đồng Mống 02 mẫu, 06 sào , 10 thước.
8. Cái ao làng có 08 sào 02 thước.
Các ruộng ao ấy, hàng năm Hương hội đem yết thi đấu giá lấy tiền xung quỹ.
Điều thứ 47.
Ruộng Hậu thần ở xứ Đông Hồ có 03 sào 08 thước thời để làm ruộng bánh thờ. (Bạch viên bính: bánh dày trắng.LKT)
Ruộng hậu Phật ở Đông Lâm 05 mẫu, 02 sào 06 thước. Ở chùa Vĩnh Phúc có 01 mẫu 04 sào thời để làm hương đăng 02 chùa ấy.
Ao công là Ao Cá có 01 mẫu, 03 sào, 10 thước để làm hương đăng ở đình Thượng.(tức đền Trần Nguyên Hãn. LKT).
Điều thứ 49.
Khi đấu giá, ai cao giá hơn thì được thầu, trong phong bì mỗi xứ phải nộp 01 $ làm tin, các giấy ấy giữ để hương hội lập biên bản lưu chiểu”.
(Trích trong Hương ước làng Quan Tử.Tư liệu viện TT KH XH Hà Nội. Số đăng kí Hư. 3423).
Các loai ruộng kể trên trừ số ruộng chùa, còn đều là ruộng “quan điền” của Tả tướng quốc còn tồn tại đến cách mạng tháng 08 năm 1945.
Như vậy là có hai tài liệu về Trần Nguyên Hãn có độ tin cậy khoa học sau vụ “chìm thuyền” ở bến Đông Hồ tháng 02 năm Kỉ dậu (1429) :
- Một là di tích ngôi đền Tả tướng do dân xã Sơn Đông xây dựng trên nền nhà cũ để thờ cúng tưởng lệ về công đức của Người.
- Hai là các văn bản về phương thức sử dụng ruộng đất của Trần Nguyên Hãn để lại sau khi được minh oan, gia đình con cháu không có người nhận, biến thành ruộng đất công của làng xã.
Đó là những thực tế để minh chứng về gia đình, di duệ Trần Nguyên Hãn không còn ai ở lại Sơn Đông từ sau vụ “chìm thuyền” năm 1429 và cho đến ngày nay.
Vì vậy mà hiện nay (nhất là từ sau năm 1988, là năm có cuộc Hội thảo Khoa học cấp nhà nước về thân thế và sự nghiệp của Trần Nguyên Hãn tại huyện Lập Thạch) có nhiều người họ Trần các nơi về xã Sơn Đông nhận là di duệ của Trần Nguyên Hãn, trở thành một vấn đề xã hội, tâm linh.
Gần đây trên mạng thông tin xã hội (mạng Google), có đăng tải một bản gia phả về gia đình của Tả tướng quốc trên Website về Trần Nguyên Hãn, như sau:
Chi tiết gia đình
Là con của Thuần Đức
Đời thứ 11
Người trong gia đình
Tên Trần Nguyên Hãn.
………………………
Xin dẫn nguyên văn như sau:
“Theo gia phả các chi họ ở xã Sơn Đông-Việt Trì-tỉnh Phú Thọ, ông Trần Thanh San (?.LKT) ghi lại trong cuốn gia phả tộc Trần Nguyên Thiên Nghệ Tĩnh trang 61&62 cho biết:
Tổ Trần Nguyên Hãn có ba bà vợ:
- Bà Cả (Không ghi tên) người làng Cao Phong, xã Văn Quán, nay thuộc xã Sơn Đông. Bà sinh hạ được một người con trai có tên là Trần Doãn Hữu. Tự là Trung Khang. Trước khi ông Trần Nguyên Hãn xuống thuyền về Kinh (theo nệnh của triệu hồi của vua Lê Lợi) , Ông cho mẹ con Bà chạy trốn vào rừng Thần; sau trở lại Sơn Đông (chi họp Trần hiện nay tại Quan Tử là hậu duệ của tổ Trần Doãn Hữu) (do tôi gạch dưới LKT).
- Vợ thứ hai của Tổ Trần Nguyên Hãn là bà Lê Thị Tuyến (theo gia phả Minh Nông); Ông Bà sinh hạ hai người con trai, người thứ nhất là Trần Trung Khoản; Người thứ hai là Trần Đăng Huy, tự là Trần Trung Lương. Khi Trần Nguyên Hãn xuống thuyền về kinh, ông cho ba mẹ con bà Tuyến chạy sang trốn sang làng Kẻ Nú, phủ Tam Đới, huyện Phù Khang, trấn Tây Sơn. Sau người con lớn (Trần Trung Khoản) tiếp tục bỏ đi và đổi ra họ Quách. Gia phả chi họ Trần ở thôn Hồng Hải-Minh Nông-thành phố Việt Trì ghi: “Tự Trung Khoản nhất lang nhi viễn chi Hoàng gia tôn phái Quách thị” và tổ Trần Đăng Huy, Tự Trung Lương đổi sang họ Đào. Hậu duệ hiện nay là các chi họ ở vùng Bạch Hạc, Minh Nông , Việt Trì-tỉnh Phú Thọ.
- Bà vợ thứ ba của Tổ Trần Nguyên Hãn, theo truyền thuyết ở xã Sơn Đông và báo cáo tham luận ở cuộc hội thảo cấp nhà nước tháng 10/1988 tại huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phúc, bà có tên là Chúa Lối, tổng Văn Bình xưa. Khi ông Trần Nguyên Hãn về hưu đi nhận ruộng gặp Bà và thành vợ chồng. chỉ đem theo Bà Ba và con nhỏ. Theo sách “Lê Triều Thông Sử” của Lê Quý Đôn viết: khi ông Trần Nguyên Hãn tự trầm mình thì người ta cứu được một hài đồng tử. sau đó, Lê Lợi bắt mẹ con Bà vào quản thúc tại kinh thành Thăng Long, tịch thu gia sản của ông”.
Đó là thông tin mới công bố ngày 17 tháng giêng  năm 2010 trên trang gia phả do Trần Phước lập và giữ bản quyền. có tên miền http//WWW.vietnamgiapha.com, chép về Trần Nguyên Hãn.
Là người địa phương, lại có trên 50 năm theo dõi về đề tài nay, trước hết theo thông tin trên, xin đính chính những sai lầm của các tác giả đã công bố trong bài.  Về:
1. Các địa danh đơn vị hành chính:  Cao phong, Văn Quán là địa danh của thời hiện tại. Đời Lê gọi Cao Phong là xã Thạch Lỗi, sau đổi là xã Hạ Phan gồm hai làng Phan Dư, Phan Lãng xã Cao Phong bây giờ, thuộc huyện Sông Lô.
Văn Quán cũng là địa danh cấp xã của thời hiện tại. Bao gồm hai thôn Lai Châu và Sơn Bình. Xã Sơn Bình (đời Lê có địa danh là Sơn Tây) có khu Đức Lễ là nơi có địa điểm “Rừng Thần”, một căn cứ của Trần Nguyên Hãn lập ra năm 1426. Sau khi ông mất đi thì dân xã ở đây lập miếu thờ Ông  ngay trên nền đồn lũy cũ, nên gọi nơi này là “Rừng Thần”, Vậy “Rừng thần” là địa danh chỉ xuất hiện khi ở đây có ngôi đền thờ Ông. Hiện còn ngọc phả và sắc phong do nhân dân địa phương xã Văn Quán lưu giữ.
Cao Phong và Văn Quán là địa danh cấp xã cũng như xã Sơn Đông. Không có “ làng Cao Phong, xã Văn Quán, nay thuộc xã Sơn Đông”, cũng không có tổng Văn Bình như trong bài mà tác giả đã viết. Điều đó chứng tỏ tác giả chưa thông hiểu gì về lịch sử địa lí miền đất này.
Để tham khảo đối chiếu, xin giới thiệu bộ Địa chí đời Gia Long “Các tổng xã danh bị lãm” do Dương Thị The – Phạm Thị Hoa dịch và biên soạn là “Tên làng xã Việt nam đầu thế kỉ XIX”, NXB KHXH Hà Nội 1981 để tác giả Website trên tự kiểm chứng và đính chính.
2. Thông tin về Trần Nguyên Hãn có 03 bà vợ là sai sự thật. Trong tài liệu lịch sử của nhà bác học Lê Quý Đôn chỉ thấy nói đến vợ và con Ông không ghi số lượng, còn  như từ sách “ Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc Sử quán triều Nguyễn từ thế kỉ 19, được Tổ biên dịch Ban nghiên cứu Văn Sử Địa thuộc Viện sử học biên dịch, nhà Xuất bản Văn Sử Địa xuất bản tháng 02 năm 1959 thì không thông tin gì về vợ và con Ông. (xem tập 09, trang20)
Các tài liệu điền dã cùng truyền thuyết về Trần Nguyên Hãn có ba bà vợ ở miền nam huyện Lập Thạch như các xã Sơn Đông, Cao Phong, Văn Quán thì đều không thấy có. Duy chỉ có một nghi vấn đặt ra là bà vợ của ông có thể là người làng Phan Lãng là do ông sinh ra và trưởng thành ở đất Phan Lãng, tức là đất địa đầu xã Sơn Đông cho đến ngày nay. Dù sao cũng chỉ là nghi vấn khi làm tư liệu địa phương của nhóm tác giả nghiên cứu về Ông mà thôi. Nên thông tin cho rằng bà vợ cả của ông “là người Phan Lãng” chạy vào “Rưng thần”, bà vợ hai Lê Thị Tuyến của ông chạy sang trốn sang làng Kẻ Nú, phủ Tam Đới, huyện Phù Khang, trấn Tây Sơn  là không có thật. Xét về mặt địa lí thì Sơn Bình cũng như Kẻ Nú chỉ cách ngôi nhà của Trần Nguyên Hãn không quá 03 km đường chim bay, chỉ có giá trị chạy trốn của một cuộc càn quét hơn là sự ẩn náu truy tìm của một nhà nước chuyên chính đang cực mạnh.
3. Còn viết rằng “Chi họ Trần hiện nay tại Quan Tử là hậu duệ của tổ Trần Doãn Hữu” lại là sự nhầm lẫn, không đúng. Cả hai bản gia phả họ Trần hiện còn ở xã Sơn Đông xưa mà các thành viên họ Trần làng Quan Tử sao chụp chuyển cho tôi cũng như việc chi trưởng họ Trần đang cư trú ở Tuyên Quang thì đều không thấy có nhân vật Trần Doãn Hữu.( “Hưu” dấu ngã).
Họ Trần ở thôn Quan Tử hiện nay (Ở Gốm cũng như ở Tuyên Quang) chỉ thờ cúng từ vị “Thủy Tổ” trở xuống là Trần Doãn Hựu, (“Hưu” dấu nặng), thượng thư bộ Lại đời Hồng Đức (1470-1497). Theo bia TS Văn miếu Hà Nội ông Doãn Hựu thi đỗ Đệ tam giáp Đồng TS xuất thân khoa Mậu tuất năm Hồng Đức thứ 09 đời vua Lê Thánh Tông (1478), danh sách thứ 37 trong số 50 vị thi đỗ ở bảng này. (bia số 06). Các bia văn chỉ huyện Lập Thạch (xem “Lập Thạch huyện Văn từ TS bi”, No.15503 Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội), Bia văn chỉ làng Quan Tử nay còn đặt trong miếu thờ Đỗ Khắc Chung (xem “Tiên hiền liệt vị”, No.15460 viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội) cùng các sách Đăng Khoa Lục lưu trữ ở thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội thì tên ông đều ghi chép thống nhất là Trần Doãn Hựu (“Hưu”dấu nặng).
Vậy là thông tin về ông Trần Doãn Hữu (Hưu dấu ngã) do các hậu duệ thờ cúng ở Quan Tử là không có thực. Và do vậy các em của ông (cùng cha khác mẹ) dẫn ra trong bài đều phải thẩm định lại trên cơ sở những bản gia phả gốc.
Có ý kiến cho rằng Trần Doãn Hựu (“Hưu”dấu nặng) là con của Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn cũng là điều khiên cưỡng. Vì theo như bản sách “Lịch triều đăng khoa bị khảo” của TS Phan Huy Ôn (bản A.485/1. tờ 56.) thì Doãn Hựu thi đỗ TS năm 27 tuổi, cũng tức là ông sinh năm 1452 là năm Nhâm thân, sau năm mất của Tả tướng quốc (ngày 26 tháng 02 năm Kỉ dậu 1429) là 23 năm. Hồ sơ xếp hạng ngôi từ đường họ Trần làng Quan Tử (xếp hạng cấp Tỉnh –Thành phố) cũng ghi về nhân vật được thờ là Trần Doãn Hựu. (Hưu dấu nặng). Chẳng lẽ người đã chết tới 23 năm lại vẫn còn “sinh con” được chăng ?
Có một thực tế là trong hai bản gia phả họ Trần hiện nay do con cháu lưu giữ, có bản tờ bìa ghi là Trần gia phả kính, hai bên ghi hai hàng chữ là:
Chí tiền nhân chi kí vãng
Khải hậu thế chi dịch tri.
Nghĩa là:
Gia phả họ Trần như gương soi.
Ghi lại việc người xưa đã qua
Mở cho đời sau biết mà không thay đổi.
Đó có thể coi là lời giáo huấn cho con cháu đời sau vậy.
Nội dung từ tờ thứ hai là gia phả của  chi thứ hai chép từ Trần Đạo Nguyên trở xuống, khởi đầu có các hàng chữ nay theo nguyên thư phiên âm và dịch là:
Trần gia phả văn
Mộc chi hữu bản, bản cố tức chi diệp mậu. Hà chi hữu nguyên, nguyên viễn tức chi lưu hệ. Phàm quyết nhân sinh khởi bất do hồ. Truy sóc Trần tộc Thủy Tổ Thượng thư dĩ lai, trữ trục khai tiên, tụ thành nhất tộc. Kì vi minh đức dã, viễn hĩ.
Dịch là:
Cây tất có gốc, gốc bền thì cành lá tươi tốt. Sông tất có nguồn, nguồn xa thì các nhánh quấn quýt. Phàm trong nhân sinh đều như thế cả. Tìm ngược trở lại, họ Trần từ vị Thủy Tổ là Thượng thư đến nay, đan dệt với nhau họp thành một họ, cũng là để sáng công đức vậy, sâu xã lắm!
Trong đoạn văn trên ở đầu gia phả rất đáng lưu ý ở câu cuối: “ Kì vi minh đức dã, viễn hĩ”. Đó là câu giáo huấn con cháu đời sau hiểu rõ ý nghĩa sâu sa của việc vì sao mà Trần Doãn Hựu lại lập ra một họ Trần mới ( không theo họ Trần cũ của cha ông) mà ông là vị Tổ mở đầu: Thủy tổ. Một việc làm rất nhân văn, nay có giá trị là một thực thể góp phần vào việc nghiên cứu về làng xã, về văn hóa các dòng họ.

                                     Ảnh tờ 2 gia phả họ Trần chi thứ 02 chép về Trần Doãn Hựu

Thực tế là trước khi cha mẹ Trần Nguyên Hãn lên lánh nạn ở địa đầu xã Sơn Đông thì ở đó đã có họ Trần. Khi Trần Nguyên Hãn “chìm thuyền” năm 1429 thì chỉ có Ông và gia đình vợ và con bị di lụy. Còn họ Trần ở Sơn Đông không ảnh hưởng gì. Triều đình vua Lê Thái Tổ biết vậy và cho đến triều đình Vua Lê Thánh Tông cũng biết vậy, nên khoa thi năm 1478 ông Doãn Hựu ra thi vẫn khai lí lịch là họ Trần và ông đã thi đỗ. Danh sách ghi trên bia Văn Miếu (Hà Nội) và các sách Đăng khoa lục đời sau (Tư liệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội),  đều ghi là họ Trần tên là Doãn Hựu không hề có sự thay đổi. Sau Ông lại làm quan tới chức Thượng thư bộ Lại là chức quan ở đầu hàng tòng nhị phẩm giữ công việc quan tước, chọn bổ, xét hạch, thăng giáng và các việc điền bổ (chức khuyết), cấp cho bổng lộc, tức là làm công việc tổ chức của triều đình.
Tuy nhiên thì dù sao ông cũng là người họ Trần ở trang Sơn Đông, nơi mà trước đó mới chỉ hơn 50 năm vẫn còn “nhãn tiền” vụ án “Trần tộc” động trời. Khiến ông không khỏi có sự lo xa cho mình và cho gia tộc với chức quan cũng rất cao sang trong triều đình ở nơi ông. Bởi vậy, để cắt đứt với mọi quá khứ, để cho cuộc sống yên lành, tránh mọi hiềm nghi trong chốn quan trường, ông mới lập ra một họ Trần mới bằng cách tập hợp tất cả người trong làng xã có họ Trần thành họ do ông là “Thủy Tổ” (ông Tổ mở đầu) (nghĩa là trên đó không còn có ai). Và để tránh con cháu đời sau sao nhãng, trong phần mở đầu gia phả họ Trần mới có lời “phả văn” như trên.  Họ Trần này của Trần Doãn Hựu vẫn quây  quần sinh tụ trên 500 năm nay và vẫn thờ tự Trần Doãn Hựu là “Thủy Tổ”, vậy sao lại kết luận họ Trần ở làng Quan Tử ngày nay là di duệ của Tả tướng Trần Nguyên Hãn được!
Xin nhắc lại: Truyền thuyết ở Sơn Đông chưa bao giờ nghe nói Trần Nguyên Hãn có ba bà vợ (Tôi gạch dưới.LKT). Hai bản ngọc phả ở đền Thượng và ở khu Đức Lễ mà chúng tôi chép được từ thập kỉ 90 của thế kỉ XX không hề chép gì về các bà vợ của ông. Nên thông tin về Trần Nguyên Hãn có ba bà vợ là thông tin thiếu cơ sở khoa học.Thông tin về bà vợ thứ ba của Trần Nguyên Hãn là “Bà Chúa Lối” là không thực tế. Trong hội thảo khoa học về “Thân thế và sự nghiệp của Trần Nguyên Hãn” ở cấp quốc gia tháng 10 năm 1988 tại trụ sở UBND huyện Lập Thạch không hề có báo cáo nào về “Bà Chúa Lối” người tổng Văn Bình là vợ thứ ba của Trần Nguyên Hãn như thông tin trong  bài. (Cũng đính chính là huyên Lập Thạch không có tổng Văn Bình). Có lẽ đó là một thông tin đã theo kiểu “gia dĩ truyền ngôn” mà viết (!). Về mục này xin xem “kỉ yếu Trần Nguyên Hãn” Sở VH-TT tỉnh Vĩnh Phú đã xuất bản.
Vậy “Bà Chúa Lối” là ai ?
Để chuẩn bị cho Hội thảo, đoàn chúng tôi gồm ba người là anh Nguyễn Chiến Thắng, phụ trách Tuyên giáo ĐW xã Sơn Đông, chị Văn Kim Chung cán bộ nhà Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phú cùng lên điền dã ở xã Xuân Lôi, tức là làng có di tích về “Bà Chúa Lối”.
Tại đây, trong khu vườn nhà ông Nguyễn Thiệu Thăng ở thôn Cây Bún có một  ngôi đền thờ “Bà chúa Lối”, cùng với bản chép lại văn bia về bà có tên là “Hoàng Việt Thái Chiêu mộ chí”, là văn bia mộ về bà. Nội dung chép bà có tên đầy đủ là Nguyễn Thị Ngọc Lãng, là cháu nội của quan Thượng thư bộ Hộ Nguyễn Thiệu Tri đời Lê Hồng Đức. (Nguyễn Thiệu Tri thi đỗ TS cùng khoa với Trần Doãn Hựu). Bà là thứ phi của Mạc Đăng Dung triều Mạc, vào những thập niên thứ 03, thứ 04 của đầu thế kỉ 16, cách xa hàng 100 năm nên chẳng có liên quan gì tới Trần Nguyên Hãn. Trong hội thảo Khoa học về nhà Mạc ở Vĩnh Phúc năm 2012, tư liệu đó đã được dòng họ Mạc công bố. Lại thêm một bằng chứng xác nhận bản vietnamgiapha.com do tác giả là Trần Phước lập ra đăng tải trên các Website về Trần Nguyên Hãn là sự chắp vá thiếu độ tin cậy khoa học.
Trong bài tác giả còn viết: “Theo sách “Lê Triều Thông Sử” của Lê Quý Đôn viết: khi ông Trần Nguyên Hãn tự trầm mình thì người ta cứu được một hài đồng tử. sau đó, Lê Lợi bắt mẹ con Bà (tức bà chúa Lối LKT) vào quản thúc tại kinh thành Thăng Long, tịch thu gia sản của ông.” Nhà bác học Lê Quý Đôn không hề viết như thế. Theo nguyên thư cụ Đôn chỉ viết có hai câu như sau:
- Về việc thuyền chìm:  “Hốt nhiên đại phong phúc thuyền. Lực sĩ xá nhân tứ thập nhị nhân cập Hãn giai nhược tử. Duy gia đồng nhị nhân phù thủy để ngạn đắc thoát”. Nghĩa là : Bỗng nhiên gió lớn nổi lên, thuyền chìm.42 lực sĩ xá nhân cùng ông Hãn đều chết cả. Chỉ có hai trẻ nhỏ trong nhà nổi lên bơi vào bờ là được thoát.
- Về gia sản vợ và con của Trần Nguyên Hãn: “Sự văn, Thượng chiếu thúc kì thê tử điền sản”. Nghĩa là : Nghe tin, nhà vua xuống chiếu bắt giam vợ và con, tịch thu gia sản ruộng đất. Ngoài ra không có chữ nào khác nữa.
Như vậy thì vợ và con cuả Trần Nguyên Hãn đều chỉ bị vua Lê Lợi giam cầm, sau khi ông được minh oan thì đều còn sống và đã đã được tha ra.
Về vấn đề này, bài của tác giả Trần Nhật Độ đăng trên báo Văn Hóa số sau tết Bính tí (1996) có tiêu đề “ Một cụm di Lịch sử-Văn hóa và cách mạng cần được xếp hạng và bảo vệ” (xem trang 03, mục Kinh tế-Xã hội). Sau đó là báo Nhân Dân  cuối tuần số 29 (389) ra ngày 14 -7- 1996 trong mục Đất nước-Con người viết về “Dòng dõi Trần Nguyên Hãn”, bài của Nguyễn Ngọc Hạnh, cùng có chung thông tin như sau: Trần Quốc Duy hiệu Pháp Độ, là con của anh hùng dân tộc Trần Nguên Hãn đời Lê. Sau khi cha được minh oan thì Trần Quốc Duy được vua Lê Thánh Tông mời ra làm quan ở chức “Thiết khoa chế lễ” là chức quan chuyên trông coi lễ nghi kỉ cương trong triều. Sau 28 năm trong ghế quan trường ông xin thôi việc. Sau đó về Thanh Hóa nghỉ ngơi 06 năm, rồi ông cùng con trai thứ ba về định cư lập nghiệp tại xã Phú Hữu huyện Đông Thành (nay là xã Nhân Thành huyện Yên Thành tỉnh Nghệ An). Ở đây hai cha con ông lập ấp khai hoang. Ông đã cùng một người họ Phạm chiêu mộ dân nghèo phiêu tán cụm thành làng sinh cơ lập nghiệp, mở ra một vùng kinh tế trù phú, dân cư đông đúc trên một diện tích rộng lớn thuộc tổng Thái Xá. (nay nằm ở phía đông hai huyện Diễn Châu, Yên Thành).
Trần Quốc Duy không chỉ lo cho dân về kinh tế đời sống, mà còn chăm lo đến việc học hành, khuyến khích việc học, mở trường lớp cho con em trong vùng. Những con em nghèo mà thông minh được nuôi cho ăn học.Một số người sau đó đã hiển đạt. Chính vì những cống hiến đó mà sau khi ông qua đời, để tỏ lòng biết ơn , nhân dân địa phương đã tôn ông làm Thành hoàng làng xã. Triều Lê Hi Tông chính thức cấp công điền thờ cúng. Các triều đại kế tiếp nhau đều có sắc phong. Nay còn lưu giữ được sắc phong đời vua Khải Định.
Các bài báo đều có nhận xét chung, hoàn cảnh xuất thân của Trần Quốc Duy là rất vẻ vang. Hậu duệ của ông đã phát triển ngót 200 chi họ hầu khắp các huyện thuộc ba tỉnh Thanh- Nghệ-Tĩnh. Qua các thời đại có nhiều đời vinh hiển, có công với đát nước như thời cần vương có con cháu tham gia, trong đó, có nhà thờ họ ở Đan Trung là cơ sở của phong trào cần vương.
Thời Lê trung hưng có Trần Đăng Dinh làm quan đến chức tể tướng, Trần Khiêm Thủ có tước quận công.
Thời Tây Sơn, nhiều con cháu tham gia đạo quân của vua Quang Trung. Thời Nguyễn có Trần Đình Phong thi đỗ TS khoa Kỉ mão năm Tự Đức 32 (1879). Thời đại ngày nay có đồng chí Trần Phú tổng bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, Trần văn Cung ( một yếu nhân của tổ chức thanh niên cách mạng đồng chí Hội), Trần Phúc, Trần Đình Kiều. Sau này còn có Thượng tướng Trần văn Quang (chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt nam). Thiếu tướng Trần Ân (nguyên phó tư lệnh Quân khu IV), Thiếu tướng Trần văn Trí.
Anh hùng được phong trong hai cuộc kháng chiến có anh hùng liệt sĩ Trần Can, anh hùng Trần Chử, anh hùng Trần văn Trí.
Nhiều con cháu là cán bộ trung cao cấp của Đảng, Nhà nước và quân đội. Nhiều người là nhà khoa học, giáo sư, tiến sĩ.
Nhà thờ Đan Trung (xã Diễn Thắng huyện Diễn Châu) thờ bài vị Trần Pháp Độ được làm hồ sơ cấp bằng di tích Lịch sử-Văn hóa cấp Quốc gia.
Đây là một phả hệ về dòng dõi Trần Nguyên Hãn như sau:

         
Sơn Đông. Ngày 08 tháng 04 năm 2013.

Lê Kim Thuyên
Nhà Nghiên cứu Lịch sử địa phương
Hội viên hội Khoa học Lịch sử tỉnh Vĩnh Phúc.
Hội viên hội Văn học-Nghệ thuật tỉnh Vĩnh Phúc.
Người quê làng Quan Tử xã Sơn Đông.
Địa chỉ liên hệ: Thôn Quan Tử, Xã Sơn Đông, Huyện Lập Thạch, Tĩnh Vĩnh Phúc.
ĐT: 02113.828.069.
DĐ:  0984550547


Thứ Bảy, 7 tháng 9, 2013

NỀN KHOA BẢNG HUYỆN SÔNG LÔ


NỀN KHOA BẢNG HUYỆN SÔNG LÔ

                                                          Lê Kim Thuyên
Hội viên hội Khoa học lịch sử tỉnh Vĩnh Phúc.
                                     
Đóng góp vào kho tàng văn hiến Văn chương và người hiền tài nước Đai Việt, huyện Sông Lô nói riêng và huyện Lập Thạch nói chung tuy thuộc miền đất đai khô cằn, khó canh tác từng thể hiện trong một câu ví von:
Lập Thạch đẽo đá xây chùa
Chưa mưa đã úng, nắng đuà đã khô
Nhưng cũng đã là huyện có truyền thống khoa bảng là một thành tạo cốt lõi. . Lập Thạch, đó là tên xã Lập Thạch nay thuộc xã Yên Thạch, trung tâm của huyên Lập Thạch đời Trần Lê trở về trước, nơi có  “ hòn Đá Dựng” để ra đời địa danh Lập Thạch huyện từ năm 1399, đời vua Trần Thuận tông, cách nay 612 năm gồm có 04 thôn Do Nha ( tục danh làng Ngà), Vĩnh Quang ( thường gọi xóm Chùa- nơi có ngôi chùa Long Hoa xây dựng từ đời Lí, còn quả chuông “Long Hoa tự chung” cực lớn cũng được tạo từ đó, được tục khắc vào đời Cảnh Thịnh triều Tây Sơn, thôn Đại Chung ( tục danh làng Cả) và thôn Văn Lâm. Đất ấy, nay thuộc về huyện Sông Lô.
          Tổng số văn bản Hán Nôm có trong địa bàn huyện Sông Lô  mới lập được chép lại hiện nay còn điều tra được là 38 văn bản. Gồm có 06 tấm bia chùa, 01 tấm bia đền miếu, 25 tấm bia đình, 02 tấm bia cầu, 01 tấm bia văn chỉ bằng đá, 03 quả chuông và một tấm khánh chất liệu đồng. Đó là những di sản còn lại từ nghìn năm đến trăm năm.
          Tương thích với kho di sản ấy là sự thành đạt về học nghiệp của lớp Nho sĩ huyện Sông Lô. Hiện nay rất khó thống kê danh sách các “ông cử, ông tú” là các bậc thi đỗ trung khoa, tiểu khoa trong huyện vì thư tịch tản mạn trong các nhà.Chỉ duy nhất còn 01 tấm bia đá đứt ngang thân, nay đặt trong sân chùa Vĩnh Khánh thị trấn Tam Sơn là còn đọc được 02 danh sách người thi đỗ sinh đồ ( tú tài ) đời Lê trong tổng số 12 người đỗ như Lê Chiêu Minh người xã Lạc Sơn, Hà Thế Bình người Xã Bình Sơn…..
           Để bù lại, thì danh sách các bậc thi đỗ đại khoa lại rất đầy đủ. Cụ thể kể ra như dưới đây.
Khổng Cư Lỗ.  孔居 魯
Chưa rõ năm sinh và năm mất.
Ông người xã Thạch Lỗi huyên Lập Thạch. Nay là làng Phan Giư xã Cao Phong. Thi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Tân sửu niên hiệu Hồng Đức năm thứ 12 ( 1481) đời vư Lê Thánh tông.
Về khoa thi này, bài kí bia Văn miếu- Quốc Tử Giám Hà Nội chép:
 Năm Tân sửu đời Hồng Đức là năm 54 kể từ năm mở nước, mà là năm thứ 22 kể tù khi Hoàng thượng trung hưng. Trong các khoa thi lớn đã mở thì khoa thi này là khoa thứ 11. Số cử nhân ghi tên xin thi ở bộ Lễ có hơn 2000 người. Chọn hạng hợp cách để vào thi đình chỉ được 40 người. Việc chọn lựa thực sự đã kĩ lắm…
Ông Khổng Cư Lỗ đã đỗ danh sách thứ 12 trong số 29 vị ở hàng đệ tam giáp theo danh sách ghi trên bia. ( xem bia số 07)
Triệu Nghị Phù趙 誼符
Năm sinh 1462. Chưa rõ năm mất.
Ông người xã Đức Liệp ( Lạp ) huyện Lập Thạch. Nay thuộc thôn Nam Giáp xã Đức Bác. Thi đõ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân khoa Bính thìn niên hiệu Hồng Đức năm thứ 27 đời vua Lê Thánh tông (1496).
Sách “Đại Việt Sử Kí Toàn Thư” của Ngô Sĩ Liên chép:
Tháng 03, ngày Đinh dậu 19, vua thân hành khảo thí ở thềm son điện Kính Thiên, hỏi về đạo trị nước. Ngày 26, dẫn các sĩ nhân vào sân điện Kim Loan, vua tự xem dung mạo từng người. Ngày 27, vua ngự chính điên xướng danh.
Có truyện rằng, xét về điểm thi, ông đỗ trạng nguyên. Do khi vào sách vấn, vua hỏi ông là người ở đâu? Ông cứ ngay thẳng đáp “Thần vu Kẻ Lép”, nghĩa là tôi là người ở Kẻ Lép. Kẻ Lép là tục danh của làng Đức Liệp, quê hương ông. Tuy nhiên vua Lê Thánh tông vốn hay chữ lại cho đó là nôm na mách qué nên đã bãi học vị trạng nguyên của ông, đánh tụt xuống bảng đệ nhị giáp danh sách thứ 05, nghĩa là tới 08 bậc học vị.
Lê Đĩnh Chi. 黎 挺 之         1467 – 1511
Ông người xã Lạc Sơn ( cũng đọc là Nhạc ) huyện Lập Thạch. Nay thuốc xã Nhạo Sơn.
Ông thi đỗ danh sách thứ 11 trong số 28 người ở bảng đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
Khoa thi Hội tổ chức vào tháng 04. Bấy giờ có tới 5000 người thi tuyển.  nhưng số lấy đỗ chỉ có 55 người.
4. Hà Sĩ Vọng.  何 仕望           1514 – 1595
Ông người ở Tuy Phúc, thuộc về xã Yên Xá, nay Yên Xá thuộc vế xã Yên Thạch. Làm nhà ở xã Bình Sơn. Vì thế có bản khai ở xã Bình Sơn. Nay di tích họ Hà còn ở xã Như Thuỵ
Ông thi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Ất mùi niên hiệu Đại Chính năm thứ 06 đời vua Mạc Đăng Doanh (1535), danh sách thứ 20 trong 22 người của bảng này năm ông mới 22 tuổi.
5. Hà Nhậm Đại.   何 任 大         1526 - 1595
Là em trai của Hà Sĩ Vọng.
Ông thi đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân khoa Giáp tuất niên hiệu Sùng Khang thứ 09 đời vua Mạc Mậu Hợp, danh sách thứ 11 trong số 13 người cùng bảng.
Kể trên, là 05 vị vào hàng đại khoa của Việt nam thời Nho học thịnh hành của huyện Sông Lô. Có 01 vị thi đỗ ở bảng đệ nhị, còn 04 vị thi đỗ ở bảng đệ tam.
Về những đóng góp cho quốc gia, có ông Lê Đĩnh Chi được cử làm phó đoàn đi sứ nhà Minh vào năm Đoan Khánh Đinh mão ( 1507 ) đời vua Lê Uy Mục, làm phận sự tạ ơn về việc vua Minh ban cho tế phẩm. Ông Triệu Nghị Phù làm quan ở chức Đô ngự sử ở Ngự sử đài, là quan chức cấp cao thuộc hàng chánh tam phẩm. Ông Hà Sĩ Vọng, làm quan tới chức hữu thị lang bộ Lễ, tương tương như chức thứ trưởng ngày nay. Ông Hà Nhậm Đại làm quan tới chức thượng thư ở bộ Lễ. (tương đương chức bộ trưởng ngày nay ), ông còn là nhà thơ có thi phẩm để lại ở đời.

                                      Sơn Đông. Ngày 30 tháng 08 năm 2011


* Tác giả giữ bản quyền.
Các tài liệu dùng để viết bài:
1. Kho bia viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội.
2. Bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám Hà Nội.
3. Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục.
Văn bản của thư viện, viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội. VHv. 2140.
4. Lập Thạch huyên văn từ TS bi.   No. 15503.
            Viện Nghiên cứu hán Nôm Hà Nội.