Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2014

THAM LUẬN

THAM LUẬN
Đọc tại đại hội Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Vĩnh Phúc
Lần thứ II. Năm 2014
---------------
LÊ KIM THUYÊN
Hội KH-LS tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập ngày 13 tháng 11 năm 2009, tính đến nay là vừa được đủ 5 năm. Mọi công việc mới chỉ như bắt đầu.
Tuy nhiên, chúng ta cũng vui mừng vì Ban lãnh đạo của Hội cũng đã xuất bản được 10 số báo “Xưa – Nay”, là tờ báo ngôn luận của Hội, chứa đựng sức sống của Hội, phản ánh những thông tin về mọi sinh hoạt của Hội.
Từ những thông tin này, mà hôm nay đứng trước đại hội, tôi đề đạt 3 nguyên vọng của riêng tôi, mong được đại hội chấp thuận đưa vào chương trình công tác chung.


 1. Đổi đặt lại tên sông Đáy.
Con sông này là một trong 4 sông chảy trong nội hạt tỉnh (s. Hồng, s. Lô, s.Cà Lồ = Nguyệt Đức, s.Đáy) từ năm 1933 mang danh là “Phó Đáy” là do viên công sứ tỉnh Vĩnh Yên (từ tháng 8 năm 1931 đến tháng 4 năm 1933) người Pháp tên là Lotzer đặt ra khi ông ta viết cuốn sách “Địa chí tỉnh Vĩnh Yên” (Monographie de la province de Vinh Yen), xuất bản ở Hà Nội. Trong sách ông Lotzer đặt tên sông là “Phó Đáy”, là để tránh tên sông Đáy của tỉnh Sơn Tây do nhóm các tác giả viết sách “Địa dư các tỉnh Bắc Kì”  xuất bản năm 1930 đặt ra trong phong trào viết lại địa chí các tỉnh để dậy trong các trường Pháp Việt do người Pháp đặt ra ở xứ thuộc địa Bắc Kỳ. Do họ đã kéo ngược con sông Đáy từ cửa Đáy của tỉnh Ninh Bình, qua sông Nhuệ, tới sông Hát giang tới tận cửa Hát (Hát Môn) thuộc huyện Phúc Thọ, đặt làm “Sông Đáy”, làm mất địa danh dòng sông Hát đã đi vào lịch sử hào hùng chống xâm lăng thời Hai Bà Trưng; Đồng thời cũng làm mất đi tên Sông Đáy của tỉnh Vĩnh Phúc vốn có tên từ thế kỷ 18 chép trong tác phẩm “Kiến văn tiểu lục”của nhà bác học Lê Quý Đôn, tồn tại suốt trên 2 thế kỉ chép trong các bộ sách địa chí lớn của Việt Nam đời xưa như “Đại Nam nhất thống chi”, “Đồng Khánh địa dư chí”, cùng các sách địa phương chí như “Sơn Tây tỉnh chí”, “Vĩnh Yên phong thổ ký”, “Vĩnh Tường phủ địa dư chí”….
Hôm nay đông đủ các đồng chí Hội viên, tôi đề nghị Hội ta có văn bản khoa học báo cáo cơ quan TW, HĐND, UBND, MTTQVN tỉnh Vĩnh Phúc cho đổi tên sông trở về như trong truyền thống là sông Đáy (底江 Để giang), phù hợp với các thư tịch đang hiện còn ở các di tích đã đi vào tâm linh làng xã 2 bờ sông, cũng là phù hợp với tinh thần bảo tồn các giá trị văn hóa đích thực của dân tộc. Như ngày 18 tháng 8 năm 1949, bác Hồ viết bài thơ “Đi thuyền trên sông Đáy, chứng tỏ địa danh sông Đáy vẫn thường dùng. Năm 1954 vẫn xuất hiện trong bài thơ Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu:
…Nhớ  từng bản khói mù sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, Suối Lê vơi đầy….
Ngòi Thia ở phía nam xã Tân Trào thì vẫn còn hiện hữu, tại bến Thia  thôn Tân Lập (tên mới đặt của làng Kim Long) xã Tân Trào huyên Sơn Dương; Tỉnh Tuyên Quang đã cho dựng bia ghi nhận sự tích Cụ Hồ Chí Minh đi mảng qua sông Đáy  vào làng Kim Long hoạt động Cách mạng ngày 21 tháng 5 năm 1945. Suối Lê tức suối Lê Nin, địa danh do cụ Nguyễn Ái Quốc đặt cho một con suối chay lượn vòng dưới chân một ngọn núi cũng do cụ Nguyễn đặt tên là núi Các Mác, địa điểm cạnh hang Pác Bó thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi Cụ  trở về nước hoạt động cách mạng ngày 02 năm 1941 sau 30 năm bôn ba hải ngoại.
Cũng xin trình bầy thêm: Tên sông “phó đáy” là không chuẩn về văn pham tiếng Việt. Bởi từ “phó” trong từ điển tiêng Việt chỉ dùng trong 3 trường hợp: - Là để chỉ cấp bậc dưới chức “chánh” (trưởng) trong cơ quan hành chính xưa cũng như nay. Là “phó”của các cấp ban ngành các cơ quan nhà nước cũng như các địa phương nơi công sở.
- Đứng trước một danh từ là để chỉ về nghề nghiêp như : phó mộc (thợ mộc), phó nề (thợ xây), phó may (thợ may mặc), phó cạo (thợ cắt tóc)…
- Là để giao cho riêng một công việc “phó thác” phải hoàn thành. Xưa đã có câu về từ “phó” này:
Phó cho con Nguyễn Thị Đào
Nước trong leo lẻo cắm sào đợi ai.
Chữ rằng “xuân bất tái lai”
Cho về kiếm tý kẻo mai nữa già.
Lời phê đơn xin đi “bước nữa”  cua một thiếu phụ, tương truyền là của vị “huyện quan bà” nào đó.
Nghĩa của từ  “Đáy” là để chỉ phần dưới cùng của một vật thể. Tỷ như “đáy bát”, “đáy nồi”, “đáy chậu”, “đáy chum”, “đáy sông”, “đáy bể” (đáy bể mò kim). Đã là “đáy” rồi thì là gi có dưới nữa để mà có”phó”. Vậy “phó đáy” là sự ngô nghê về dùng từ tiếng Việt, sao lại dùng làm danh từ để đề danh một con sông ở miền quê Vĩnh Phúc văn hiến có gần 100 TS Nho học nổi tiếng một thời.
2. Viết sách “Vĩnh Phúc thông sử”. Lấy tên sách là  LỊCH SỬ TỈNH VĨNH PHÚC.
Vĩnh Phúc tọa lạc ở đỉnh của đồng bằng Bắc Bộ, xưa mệnh danh là đất Phong Châu “Bà Trưng quê ở châu Phong”. Là thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng với nền văn minh lúa nước của người Việt cổ. Như vậy bề dầy lịch sử là vô cùng ở trong bộ chủ Văn Lang, thời quốc gia Văn Lang các vua Hùng. Trải nhiều nghìn năm phát triển, Vĩnh Phúc đã là miền đất của 3 kinh đô Việt cổ.
Kinh đô Văn Lang ở thôn Việt Trì xã Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc thuộc Sơn Tây của thời dựng nước.
Kinh đô Cổ Loa thời quốc gia Âu Lạc.
Kinh đô Mê Linh quốc gia Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng.
Rồi đến thời nước Nam Việt của Triệu Đà ở thế kỷ thứ 2 TCn, trong cuộc kháng chiến chống xâm lăng của nhà Tây Hán có căn cứ Long Động trên núi Thiết Sơn (núi Thét) thuộc xã Quang Yên huyện Sông Lô cò nhiều dấu tích về Long Động, mặt trận chống Lộ Bác Đức ở phương nam.
Đến thời quốc gia Đai Việt, thì Vĩnh Phúc là miền đất phía tây bắc tiếp liền kinh thành Thăng Long, chịu ảnh hưởng trực tiếp của nền văn hiến Thăng Long. Trong các cuộc kháng chiến chống quân Lương ở thế kỷ thứ 6, quân Nguyên Mông 3 lần ở thế kỷ 13, chống giặc Minh thế kỷ 15….trên lãnh địa của Vĩnh Phúc còn nhiều địa danh ghi dấu những chiến công lẫy lừng.
Gần đây thôi, trong thời kì chống thực dân Pháp xâm lăng, Vĩnh Phúc có núi Sáng Sơn là căn cứ của nghĩa quân Đề Thám ở đầu thế kỉ 20….Trong kháng chiến 9 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao Động Việt Nam và chính phủ nước Việt nam dân chủ cộng hòa, Vĩnh Phúc đã diễn ra các trận đánh với chiến thắng lẫy lừng như trận Khoan Bộ thu đông năm 1947, trận Xuân Trạch, mặt trận trung du trong chiến dịch Trần Hưng Đạo…rồi với các thành tích “diệt tề.trừ gian” ở vùng đồng bằng bị tạm chiếm…Quân và dân Vĩnh Phúc đã đóng góp rất nhiều về sức người, về của cải. Nhìn vào danh sách các anh hùng liệt sĩ, các bà mẹ Việt Nam anh hùng của Vnh Phúc ghi trên bia hoặc chưa có dịp để đề danh, cũng chứng tỏ sự đông góp với quốc gia là lớn lao biết giường nào!
Rồi còn trong lao động sản xuất, Vĩnh Phúc là xuất phất điểm của cây ngô đông, quê hương của “khoán hộ”, tiền đề mở ra quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp, của công cuộc đổi mởi đường lối quản lý nông thôn.
Bởi vậy, tiến hành công cuộc sưu tầm và viết sách “thông sử” cho Vĩnh Phúc đang là thời điểm thích hợp, hội đủ các yếu tố nhân, vật, tài lực.
Trong các năm từ khi Vĩnh Phúc trở lại với địa bàn cũ, do sự cố gắng không mệt mỏi, đã có nhiều đầu sách viết về Vĩnh Phúc được xuất bản. Đáng kể nhất là sách “Địa chí Vĩnh Phúc” do TW, HĐND, UBND tỉnh chủ trì, (công bố và ấn hành NXB KHXH Hà Nội năm 2012), là xứng tầm với tiềm năng đất nước, con người Vĩnh Phúc. Nay có thêm bộ sách “Vĩnh Phúc thông sử”, tỉnh ta sẽ trọn vẹn những ấn phẩm giớí thiệu hoàn thiện về “Đất-Người Vĩnh Phúc” , dùng làm tài liệu để biên soạn các bài giảng về lịch sử địa phương tỉnh Vĩnh Phúc trong các trường học toàn tỉnh thực hiện lời dạy của Bác Hô: “Dân ta phải biết Sử ta”.
3. Hoàn thiện sách “Danh nhân Vĩnh Phúc”.
Năm 1999 sở VH TT TT đã xuất bản sách “Danh nhân Vĩnh phúc” tập I (Chưa có tập II), năm 2000 sở GD-ĐT  in lại dùng làm tài liệu tham khảo cho các trường trong tỉnh.
Tuy nhiên, nội dung cuốn sách mới chỉ đề danh được các vị từ thời Hai Bà Trưng từ năm 40 Cn tới năm 1919, trên tiêu chí là “Người thật, việc thật”, là năm kết thúc khoa thi Hội, thi Đình mà Vĩnh Phúc có người đạt học vị TS. Sở dĩ mới được như thế vì lúc đó mới tách tỉnh, do thời lượng công việc và thời gian, chúng ta chưa đủ điều kiện để hoàn chỉnh thêm.
Nay thì địa giới toàn tỉnh đã ổn định, những tư liệu về con người Vĩnh Phúc trong lịch sử đã “xuất lộ” đầy đủ, bởi vậy tôi đề nghị Hội ta đề đạt với Tỉnh cho hoàn thiện sách DANH NHÂN VĨNH PHÚC đề danh tên tuổi những người con đất Vĩnh Phúc xứng đáng, sáng danh trong lịch sử dân tộc và trong tỉnh, bắt đầu từ thời Hùng Vương dựng nước đến năm 1975, là năm hoàn thành công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước.
Nội dung sách là viết nối vào sách “Danh nhân Vĩnh Phúc” Tập I  phần trước và phần sau, (xuất bản năm 1999). mà không có tập II. Hoàn thiện làm 1 tập.
Kính chúc các vị đại biểu “khang thái”, chúc Đại hội chúng ta thành công .
Sơn Đông. Tháng 11 năm 2014.
Hội viên  LÊ KIM THUYÊN.