Lê
Kim Thuyên
Khởi đầu ở tỉnh Vĩnh Phúc từ triều Lí (1010 – 1125) đã
có người đỗ đại khoa gọi là khoa thi “Thái học sinh”, (tương đương khoa thi TS triều Lê) lấy đỗ được 5 người. Ông Phạm
Công Bình người xã An Lạc, huyện An Lạc đỗ danh sách thứ nhất một khoa thi,
tương đương học vị Trạng nguyên đời Trần - Lê về sau (Nay là thôn Yên Lạc xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc), mở ra nền khoa bảng
của tỉnh Vĩnh Phúc, tính đến nay đã khoảng ngoài 800 năm.
Cho đến khoa thi năm Kỉ sửu niên hiệu Thành
Thái I (1889), là khoa thi Đình cuối cùng có người Vĩnh Phúc thi đỗ là ông Phan
Duy Bách người xã Kiên cương, nay là thôn Kiên Cương xã Ngũ Kiên huyện Vĩnh Tường.
Tổng số thành đạt được 88 vị có khoa bảng tính từ học vị Phó bảng tới Trạng
nguyên, là học vị đỗ cao nhất ở khoa thi Đình.
Tuy nhiên có sách chép dừng lại ở con số 86. Đó
là sự tồn nghi về 2 vị là Đặng văn Bảng và Hoàng Hữu Tài. Xin kể ra như sau:
ĐẶNG VĂN BẢNG 鄧文榜
(1818 - ?)
Thi đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ khoa Quí Sửu năm Tự Đức
thứ 6 – 1853 1 đời vua
Anh Tông Duệ hoàng đế. Só lấy đỗ là 7 người, gồm có 2 người đỗ Đệ nhất giáp TS
cập đệ đệ tam danh (thám hoa), 1 người
đỗ Đệ nhị giáp TS xuất thân (hoàng giáp), 4 người đỗ Đệ tam giáp Đồng TS xuất thân. Còn
lấy thêm 6 người cho đỗ Phó bảng.
Ông Đặng Văn Bảng đỗ hàng đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất
thân danh sách thứ nhất. Bia văn miếu Huế ghi về ông: Cử nhân, sinh năm Mậu dần
(1818), thi đỗ năm 36 tuổi, Người xã Vân
Cốc (雲穀), tổng Nhật
Chiêu, huyện Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây. (Xem
bia số 16, Văn miếu Huế. Thác bản No. 16482 viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội).
Còn sách “Quốc triều khoa bảng lục” 2 chép “làm quan đến Án sát 3
tỉnh Nghệ An” (hàm chánh tứ phẩm).
HOÀNG HỮU TÀI 黃 有 財
(1828 - 1871)
Thi đỗ Phó bảng khoa Nhâm tuất năm Tự Đức thứ 15
(1862). Sử “Đại Nam
thực lục” của Quốc sử quán triều Nguyễn chép về khoa thi này: “ Cho 2 người đỗ
đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân. Bốn người đỗ đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân
– lấy đỗ hàng Phó bảng 5 người”.
Hoàng Hữu Tài đỗ phó bảng danh sách thứ 5. “Cho bọn …..Phó
bảng là Phạm Xuân Trạch, Nguyễn Duy Tân, Trần Doãn Đạt, Phạm Huy Lượng, Hoàng Hữu
Tài”. Sách còn ghi rõ quê quán về ông: “Hữu
Tài người ở Vân Cốc, Sơn Tây” 4.
Còn sách “Quốc triều khoa bảng lục” chép ông “Sinh năm Mậu tí (1828) đỗ cử nhân
khoa Ất mão (1855) đỗ Phó bảng năm 35 tuổi”.
Ông làm quan trải các chức tri huyện Trực Ninh (Chánh lục phẩm), rồi tri phủ Diễn Châu tỉnh
Nghệ An (tòng ngũ phẩm). Sau được điều
về kinh đô (Huế) giữ chức trưởng quan
Vũ học đường (chánh ngũ phẩm) sung chức
Khâm sai bổ vụ . Năm Tự Đức 24 (1871) ông đem quân đi dẹp loạn ở vùng Quán Tỉnh
huyện Đông Ngàn (từ năm 1876 về sau là
huyện Đông Anh), hi sinh tại mặt trận. Được truy tặng chức Thị giảng học
sĩ. Đến năm Tự Đức thứ 33 (1880) được thờ thêm vào “đền Trung nghĩa” lập ra ở ở
phía đông nam sông Hương phía mặt trước kinh thành Huế từ năm Tự Đức thứ 11
(1858), trong danh số 1532 người 5 của đợt này. Như vậy là 2 ông Đặng
Văn Bảng và Hoàng Hữu Tài cùng sinh trong một làng quê là xã Vân Cốc, tổng Nhật Chiêu, huyện Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây đời vua Tự Đức.
Tức là phần đất cuả tổng Nhật Chiểu từ năm thành lập
tỉnh Vĩnh Yên (ngày 29 tháng 12 năm 1899) là thuộc về huyện Yên Lạc cuả tỉnh
Vĩnh Phúc ngày nay.
Tuy nhiên hiện không còn thấy địa danh xã Vân Cốc trên
bản đồ tỉnh Vĩnh Phúc nữa, Vậy Vân Cốc
xã, Nhật Chiêu tổng, Bạch Hạc huyện thời vua Tự Đức (1848 – 1883) nay thuộc về
đâu? Điều đó khiến tôi băn khoăn và tìm về nơi có địa danh Vân Cốc xã.
Trước hết, địa danh Vân Cốc thấy xuất hiện trong sử
sách từ năm 1741 (niên hiệu Lê Cảnh Hưng
năm thứ 2) là do sách có chép đến “bến đò Cốc” 6, (bến đò ngang sang huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn
Tây cũ) ở mép tả ngạn sông Hồng nơi có bãi Vân Cốc dài tới 11 km, từng có
trận thủy chiến giữa quân của triều đình với bại tướng Nguyễn Diên vốn là cháu
của các thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân là Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ. Nhớ đến sự
kiện này danh sĩ Cao Bá Quát (1809 – 1854) có câu viết: “Vân Cốc, Hà Dương cổ
chiến trường…” (chiến trường xưa)
trong một bài thơ viết về núi Tam Đảo.
Đến đầu đời Nguyễn, xã Vân Cốc thuộc tổng Nhật Chiêu
chép trong sách “Các tổng xã danh bị lãm”,
bộ địa danh thời Gia Long 7 ghi địa danh các làng xã Việt Nam đầu thế
kỉ 19 thì tổng thuộc huyên Bạch Hạc (thời đó, sau là huyện Vĩnh Tường, nay là thuyện Yên Lạc) gồm 10 xã là: Nhật
Chiêu, Vân Cốc, Đại Tự, Cẩm Tuyền,
Ái Vũ, Cẩm Khê, Cẩm Viên, Cổ Nha, Quất Lệ và Miêu Cốc (tức Dương Cốc đời Đồng Khánh do kiêng húy chữ “Miêu” là tiểu tự vua Thiệu
Trị nên đổi thành “Dương Cốc”).
Tên xã Vân Cốc còn được ghi trên quả chuông đồng “Vĩnh Tường văn miếu chung” (chuông Văn miếu phủ Vĩnh Tường), tạo năm
Thiệu Trị thứ nhất triều Nguyễn – 1841 chép về việc xã Vân Cốc cùng xã Đại Tự…..
cung tiến 2 sào ruộng vào Văn miếu 8 .
Đến đời Đồng Khánh (1886-1888), theo sách “Đồng Khánh
địa dư chí” 9 , tổng Nhật Chiêu huyện Bạch Hạc vẫn có 10 xã gồm: Xã
Nhật Chiêu, xã Cẩm Viên, xã Cẩm Trạch, xã Cổ Nha, xã Đại Tự, xã Cẩm Khê, xã Ái
Vũ, xã
Vân Cốc, xã Quất Cốt (cũng gọi là Duật
Cốt nay là thôn Cẩm La xã Hồng Châu huyện Yên Lạc), xã Dương Cốc.
Đó là kể về văn bản chính thống ở thế kỉ 19, miền đất
này vẫn bình yên.
Về thư tịch địa phương, tổng Nhật Chiêu thấy chỉ chép
có 8 xã trong sách “Vĩnh Tường phủ địa
dư chí” 10 ,được viết vào khoảng sau đời Đồng Khánh gồm có các xã:
Nhật Chiêu (tục gọi làng Rau), xã Cổ
Nha, xã Cẩm La (tên cũ là xã Duật Cốt), xã Cẩm Viên, xã Cẩm Trạch, xã Cẩm Khê (tức phường Trí Thủy), xã Đại Tự
(Trí Thủy phường) “phường sông
nước”, xã Ái Vũ (vô nhân- không người ở), không thấy có tên xã Dương Cốc và Vân
Cốc. Như vậy là vùng đất này đã có biến động lớn cùng xuất hiện với “Trí Thủy
phường” là phường sống trên sông nước. (nguyên
văn chữ “Trí Thủy 智
水 nghĩa là “nước chảy thông minh”
) chú giải ở 2 xã Đại Tự và Cẩm Khê. Chữ “Phường”
là khối dân cư cùng làm một nghề, ở đây có thể là nghề thuộc về sông nước.
Gần đây nhất là cuốn “Địa chí tỉnh Vĩnh Yên” 11
viết năm 1939, khi kể về địa danh các làng xã chỉ chép tổng Nhật Chiêu huyện Yên Lạc cũng chỉ
có 8 xã: Nhật Chiêu, Đại Tự, Cẩm Trạch, Cẩm Viên,Trung Yên, Cổ Nha, Cẩm Hà, và
Từ Hạ. Không còn thấy tên 3 xã cũ là Vân
Cốc, Dương Cốc và Ái Vũ nữa !
Vì sao lại như vậy ?
Theo nhiều nguồn thông tin từ địa phương, vào khoảng các
năm từ Tự Đức 33 (1880), trở về sau, do có
biến động về địa lí, bờ sông Hồng bị lở về phía
nam, bồi thổ về bờ hữu sông Hồng ( Dòng
sông bên lở, bên bồi), tạo thành
miền đất bãi mênh mông. Nhân dân miền này đã bồi đắp lập thành 3 xã mang tên
Vân: Vân Phúc, Vân Nam, Vân Hà trong đó xã Vân Nam có thôn Vân Cốc mang “hồn” của
quê Vân Cốc xưa bên bờ tả sông Hồng. Nay là đất huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây cũ.
Trong vụ lở đất kinh hoàng này, không chỉ toàn bộ làng
Vân Cốc bị mất đất, còn có các làng ven sông như Dương Cốc (Miêu Cốc) cũng mất
đất, dân chúng phải chuyển dời vào lập quê mới ỡ xóm Trại xã Lí Hải huyện Yên
Lãng đem theo cả các đình chùa của làng này (đã xếp hạng Di tích LS – VH cấp Tỉnh-Thành phố), nên thường gọi là
“Trại Cốc”, nay trở thành thôn Dương Cốc xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên là lấy lại
tên cũ. Còn xã Ái Vũ (Cát Vũ) kề bên cũng chỉ còn lại 4-5 hộ dân cư (vẫn có 1
Lí trưởng), sau sáp vào xã Nhật Chiêu, để nay là 1 thôn trong 4 thôn của làng
Nhật Chiêu (thôn Đông, thôn Thượng, thôn
Trung và thôn Ái Vũ) xã Liên Châu huyện Yên Lạc. Vì vậy năm 2012, khi biên soạn cuốn “Địa chí
Vĩnh Phúc” 12, do TW HĐND UBND tỉnh chủ trì, ghỉ địa danh các thôn
như: Nhật Chiêu (có 7 thôn mới thuộc xã Liên Châu), cùng các thôn của xã Đại Tự
(có 6 từ thôn 1 đến thôn 6), thôn Cẩm
Nha, Cẩm Trạch, Cẩm Viên đều thuộc xã Đại Tự, mà không thấy có tên 3 xã cũ là
Vân Cốc, Dương Cốc và Ái Vũ (tức Cát Vũ).
Cũng không thấy địa danh “phường Trí Thủy”.
Kết quả của sự “thiên di” đó nên khi viết sách “Quốc
triều khoa bảng lục” cụ Cao Xuân Dục, một vị quan đại thần của triều đình nhà
Nguyễn, ghi lại tên họ, quê quán của tất cả những thí sinh thi đỗ các khoa thi
Đình dưới thời nhà Nguyễn từ khoa Nhâm ngọ (Minh
Mạng thứ 3- 1822) đến khoa cuối cùng là năm Kỉ mùi (Khải Định thứ 4-1919), cụ Cao đã ghi quê quán của 2 ông khi thi đỗ
là “xã Vân Cốc, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn
Tây” là quê gốc. Nhưng ở dòng cuối cụ lại chua chữ là “kim sáp Phúc Thọ” (今插福壽),
nghĩa là nay Vân Cốc “Đặt” vào, "cắm, cấy" vào huyện Phúc Thọ, (mà không phải là "sáp nhập" (gộp vào) là năm cụ viết sách “Quốc triều
khoa bảng lục” – năm 1893-, tức là huyện đối ngạn
với xã Vân Cốc của huyện Bạch Hạc trước đó qua bến đò Cốc, thuộc bờ bên kia
sông Hồng không cùng địa giới (còn cách cả con sông Hông). Chữ “sáp” của Cụ Cao dùng là để về sau có địa chỉ còn tìm
hiểu, không phải là quê gốc gác của các “ông nghè”.
Dù sao, cũng do chữ “Sáp” từ đó về sau, trong nhiều
sách viết về 2 ông, có chú giải về địa danh Vân Cốc khác nhau, khiến có kiến giải
về quê quán hiện nay của 2 ông khác nhau.
Điển hình gần đây nhất là sách “Các nhà khoa bảng Việt
Nam” 13 của các tác giả thuộc viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội, đã quy
đổi quê quán của 2 ông là “xã Vân Cốc
huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây” (Đặng Văn Bảng), hoặc “thôn Vân Cốc xã Vân Nam huyện Phúc Thọ tỉnh Hà Tây” (Hoàng Hữu
Tài). Bởi vậy khi lên Vĩnh Phúc nghiên cứu và viết sách “Truyền thống hiếu học
và hệ thống Văn miếu Văn từ Văn chỉ ở Vĩnh Phúc” 14 TS Nguyễn Hữu
Mùi đã không ghi danh 2 ông vào mục các vị “Danh mục đỗ đại khoa ngạch văn”, tức
là không xếp 2 ông vào hàng khoa bảng của tỉnh Vĩnh Phúc. Cũng sau đó, khi viết sách "Địa chí Vĩnh Phúc" cũng TS Nguyễn Hữu Mùi lại "quên" tên 2 ông. Bởi vậy số các nhà
khoa bảng mới chỉ được đề danh trên 17 bia Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc chỉ là 86 vị. Trong sách "Địa chí Vĩnh Phúc" do TW - HĐND - UBND Tỉnh Vĩnh Phúc chủ trì, NXB KHXH Hà Nội ấn hành năm 2012 không ghi tên 2 ông vào phần Văn hóa Xã hội là một khiếm khuyết.
Gần đây (ngày 02
tháng 4 năm 2015), trong mục “Đất và Người”, của “cổng Thông tin điện tử
huyện Phúc Thọ” công bố trang “Những danh nhân tiêu biểu trên quê hương Phúc Thọ”
có đề danh 10 vị (trong tổng số 12 vị) là các bậc đại khoa gồm cả Đặng Văn Bảng và
Hoàng Hữu Tài quê Vân Cốc (trong văn bản
ghi là Hoàng Hàm Tài, có lẽ là vào máy nhầm) có thể cũng từ những thông tin
này là một thông tin hồ đồ..
Vậy có thể thấy phần đất xã Vân Cốc của TS Đặng Văn Bảng
và Hoàng Hữu Tài bị lở chôi đi và dân chúng trong làng khì tản đi trở thành
“Sáp Phúc Thọ” (đã di sang nhập huyện
Phúc Thọ ?), Điều nghi vấn này chưa thấy có thông tin xác nhận;
Hoặc cũng có thể di vào trong cùng với dân thôn xã Đại Tự lập thành các
“trại” từ trại 1 đến trại 6; “Trại Dưới”, (gồm Trung Anh + Cẩm Viên), “Trại Giữa”
và “Trại Trên” như thống kê của huyện Vĩnh Lạc (Vĩnh Tường + Yên Lạc) vào những
năm 1992. Để đến nay xã Đại Tự huyện Yên Lạc gồm có 16 thôn gồm Tam Kì từ 1 đến
6, Đại Tự cũng từ 1 đến 6, cùng các thôn
có tên trùng với các văn bản cổ là Cẩm Nha (tức
Cổ Nha), Cẩm Trạch, Cẩm Viên và Trung An chép trong sách “Địa chí Vĩnh
Phúc” do TW-HĐND-UBND tỉnh Vĩnh Phúc chủ trì biên soạn. Hiện nay dễ nhận thấy trên bản đồ huyện Yên Lạc có 3 xã nằm kề mép sông Hồng là Đại tự, Liên Châu (thôn Nhật Chiêu) và Trung Hà.
Lại thấy các làng Vân Nam, Vân Phúc, Vân Hà đều là địa danh xuất
hiện sau năm bờ tả sông Hồng bị lở năm 1888, nghĩa là sau năm TS Đặng Văn Bảng
thi đỗ và ra làm quan làm quan là 70 năm, khi này ông đã 106 năm tuổi (thi đỗ năm 36 tuổi), còn PB Hoàng Hữu
Tài đã hi sinh ngoài mặt trận tới 17 năm,–
1871- là 22 năm hưởng dương 43 năm tuổi. Vậy thì chỉ thể có hòn đất trôi giạt Vân Cốc
“xưa” nay được “cắm” vào địa giới huyện
Phúc Thọ, còn “Phần Hồn” với “Phần Cốt” (thịt xương) của 2 ông thì vẫn còn nằm lại
ở nơi làng quê Vân Cốc từ khi sinh ra, đến khi thành đạt, cũng như khi lìa cõi
trần thế về với tổ tiên.
Sao lại bảo các ông là người của huyện Phúc
Thọ được ?
Nỡ nào các nhà nghiên cứu ngày nay lại dễ dãi
“gắn” các vị đã trở thành “thiên cổ” lưu du ra khỏi nơi nguyên quán quê mình ?
Kết luận: TS Đặng
Văn Bảng cùng PB Hoàng Hữu Tài mãi mãi là các nhà khoa bảng của tỉnh Vĩnh Phúc,
đề danh các vị vào xã Đại tự huyện Yên Lạc là hợp lí nhất. Tạo thành con số 88
các nhà khoa bảng của miền đất 1000 năm Văn hiến Thăng Long.
1. Xem bia Miếu
văn thánh Huế “Hoàng triều Tự Đức lục niên, Quí Sửu Hội thi khoa Tiến sĩ đề
danh kỉ”, No 16482.
2. Quốc triều khoa bảng luc, Cao Xuân Dục. Bản
VHv.640. tờ 17a.
3 . Án sát: Chức quan cai trị cấp tỉnh, thiết
lập năm 1831 thời Minh Mạng, chuyên trách về việc hình sự. Thời thuộc Pháp, chức
quan này bị bãi bỏ ở Nam Kì, nhưng vẫn được duy trì ở Bắc Kì và Trung Kì
4. Xem: Đại Nam thực
lục – Bản dịch, NXB Giáo Dục. Hà Nội năm 2007. Tập 7 trang 1196.
5. Đại Nam thực
lục. Sđd tập 8 trang 396.
6 .Xem Việt sử thông
giám cương mục. bản dịch. Tập 18. NXB Sử học Hà Nội năm 1960. Trang 10.
7. Bản dịch của Dương Thị The và Phạm Thị
Hoa.NXB KHXH Hà Nội năm1981.
8. Chuông hiện
tàng ở phòng Văn hóa – Thông tin huyện Vĩnh Tường.
9. Bản dịch của nhóm biên tập Ngô Đức Thọ,
Nguyễn Văn Nguyên, Philippe Papin.
NXB Thế Giới Hà
Nội năm 2003.
10. Tài liệu
Viên nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội. A.1868.
11. Sách giáo
khoa giảng dậy dùng trong các trường Pháp Việt. Nhà in Thụy Kí Hà Nội ấn hành
năm 1939
12. Nhà XB KHXH
Hà Nội ấn hành năm 2012. Xem trang
147
13. NXB Văn Học, Hà Nội. năm 1993. Các trang 845 và 856.
14. Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch Vĩnh Phúc. Năm
2011,xem từ trang 49.