BẢN XÃ ĐỊA MẠCH QUỐC
ÂM CA.
本社地脈國音歌
Lời dẫn: Bài ca địa mạch là một
thể loại văn học thuộc ngành văn học dân gian, tuyên về mạch đất, hình thế sông
núi, phong cảnh quâ hương, hình thái sinh hoạt của một làng. Hay còn có tên là
“Mục lục văn”, chữ “Mục lục” có nghĩa là ghi chép riêng những chương tiết trong
một thư tịch, một văn bản. Do tập thể làng xã, hoặc do người có uy tín văn học
biên soạn, được làng xã xử dụng. Xuất phát từ đó, ở các làng xã tỉnh Vĩnh Phúc
có một loại hình văn hóa đọc, là các bài văn “Mục lục” tuyên về sự tích các vị
thần, về phong thổ của làng mình, thường được tổ chức thi đọc vào mùa xuân
trong dịp lễ hội làng ở các di tích như đền, miếu, đình. Cuộc thi có thưởng, giải
của làng.
Người dự thi là các nam thành viên trong làng, nhất là thanh thiếu niên
tuổi học trò. Ban giám khảo là thành viên các bô lão, các chức việc trong làng,
nhất là các bậc cao niên túc học.
Nhận thấy đây là một phong túc tốt đẹp, thể hiện trình độ văn hiến cao và
sự thẩm mĩ tinh tế của các làng xã Vĩnh Phúc, bài đầu tiên về đề mục này, chúng
tôi giới thiệu về xã Thượng Trưng. dưới đây là toàn bài.
1.
Xem dân xã trong miền phủ Vĩnh.
Thượng Trưng ta phong cảnh nhiệm mầu.
Kể từ Hùng Lạc (1) bấy lâu
Tả hà (2)vẫn tiếng Phong châu (3)còn truyền.
2. Ta xã lớn đứng trên đầu tổng (4)
Số người nhiều đất rộng bao la
Dân thôn chia ở làm ba
Đình chùa miếu mạo coi là chính long.
3. Qua cầu Giót (5) trông sang Lâm mới (6)
Hai “tích” ngoài giáp giới Đan Giang.(7)
Cửa đình thần bút Lâm giang (8)..
Anh hoa nét bút khoa tràng đã lâu.
4.Văn vẫn nhớ từ đầu Lê trước
Phát khoa danh quan tước ầm ầm
Đại khoa cờ biển có năm
Bốn mươi hương cống (9), hai nhăm sinh đồ (10).
5.
Mười hai kiểu hậu Nho để lại
Chiếu la kinh hồ hởi long châu
Kể trong các họ thì nhiều
Bùi, Lê, Phí, Nguyễn vẫn đều thịnh hơn.
6.
Kià nhà nước có cơn bĩ thái
Cây gỗ tròn vững trãi không sao
Trước đền cảnh cấn thanh tao
Hồ
trong trẻo nước, sen ngào ngạt hoa.
7
Chùa (11) đứng trong ba tòa Phật ngọc
Khắp trong ngoài đại tự đối liên
Lầu chuông, gác trống đôi bên
Khách thì bút mực, sư truyền kệ, kinh.
8.
Ngoài Văn chỉ địa hình quý nữa
Bút kề nghiên bảng cửa trông sang
Dân ta sở tại đèn nhang
Xuân thu huyện tế, lệ thường tự xưa.
9.
Mấy quan lớn phong quyền chánh sứ,
Ruộng mấy tiền cấp để cho dân
Làm ân, ân lại nhớ ân
Năm hai lần tế trước sân nhà thờ.
10.
Ngả tư mới bây giờ họp chợ
Cửa
hàng trông sang cửa quán Đề (12),
Ngày phiên nô nức tứ bề
Nhiều người đông chợ đi về cũng vui.
11.
Đường thiên lí tiện người xe ngựa
Thẳng một thôi xuống thẳng phủ thiềng (thành)
Qua cầu quán Giáp (13) thôn Chiềng (Trình)
(14)
Có
chùa chuông đứng chênh vênh giữa đồng.
12.
Giời sớm tối mây lồng cửa tuệ (15)
Vãi cứ tuần tiến lễ dâng hoa
Đầu dân thẳng xuống trông ra
Anh linh lại có ông bà quán Đơi (16).
13.
Cây cổ thụ đứng phơi mặt gió
Giếng “tràng sinh” soi tỏ bóng giăng
Gần xa lễ bái hương đăng
Cầu con, cầu được thêm mừng lắm con.
14.
Trong dân giảng bốn thôn từ trước,
Rằng: đông. Nam , Đoài, Bắc rành rành
Ruộng thờ cho chí ruộng binh
Công bi, công thổ cũng đành chia tư.
15.
Bề ngôi vọng nhất Tư văn hội (17)
Nghị võ hàng còn dưới quan viên
Hăm nhăm ra lễ tiên điền
Mấy yên cõi thọ bước lên dần dần.
17.
Mười năm cứ một tuần lên thọ (18)
Rượu chè trong giầu có tùy nghi
Thanh bình dù họa có khi
Tháng giêng mở đám lắm nghề trò vui.
18.
Thuyền lợn gạo đem phơi mặt nước
Lửa kéo lên được trước là may
Mâm chay, cỗ mặn đặt bày
Bên kia Đoài Bắc, bên này Đông Nam .
19.
Cây mấy đuốc sắp cơm thi nấu
Chật sân đình có giấu ai đâu
Giả hình đội mũ lên đầu
Táo chù, chấu chạch, tớ hầu , thầy sai.
20.
Đất xã có, người tài vẫn có
Văn đã hay mà võ cũng hay
Ông Trần Khoan (19) trước ra tay,
Giấu nuôi con phượng, toan nay thành rồng.
21.
Ông Quận ác ách hàng trăm trận
Ngọn cờ quay gió thuận về triều
Sơn Tây phó lãnh quyền cao
Vượn quên rừng Sở (20), chim vào lưới
Thang (21).
22.
Người tổng lí theo đường quan chính
Mảnh giấy vàng tước lệnh ân vua.
Họ Bùi có cụ Cai xưa
Thay quyền đánh giặc sức đua trận tiền.
23.
Sau ông Đội con hiền lại nối
Trong tổng nhà gặp hội binh qua
Giặc đâu vô số đằng hà
Cắm cờ thu phục, phủ nhà lại yên.
24.
Người phúc hậu, uy quyền cũng gớm
Sớ tâu cho “lục phẩm”, quận công.
Lính xưa về trại hữu hùng
Kẻ
“cai”, người “đội” đều cùng làm nên.
25.
Trông đúng mực bề trên huynh trưởng
Dưới con em kính trọng một niềm
Giữ gìn trong ấm, ngoài êm
Có xô xát cũng không hiềm thù nhau.
26.Người
thi cử đeo bầu cắp ống
Chí cũng mong ông Cồng (22), ông Nghè (23)
Quan trường đã hẹp phép phê
Tài cao, đỗ muộn phá nghề cũng hay.
27.
Lò “đúc” trẻ chốn này, chốn khác.
Sẵn câu văn đài các dạy cho
Nho nhe cũng lắm thầy Nho
Nhưng không đến nỗi đô đô trượng hình.
28.
Nhà giàu có đàn anh, đàn chị
Con giai có chí khí ra tuồng
Chê người tính nết huênh hoang
Không xin đơn, nói một gang đến giời.
29.
Người cơ kiệm ăn chơi mọi vẻ
Kẻ bán buôn sỏi mẽ kiếm tiền
Làm ăn gái cũng cân quyền
Áo khăn quê kệch càng nhìn càng xinh.
30.
Một hai ả xuân tình cũng có
Bởi vì ai quen gió rung cây
Trai ta cũng lắm nghề hay
Chèo thuyền ngư, phủ ra tay vững vàng.
31.Lọng
ngang trời ra tay đạp đất
Chí giang hồ chẳng chấp chi ai
Tôm, cua, chắm, chép mọi loài
Dậm cho xầy vảy, tay mai cũng chờn.
32.Kìa
nói đến thợ sơn cũng khéo
Tốt vàng son thiếp kiệu, cỗ ngai
Bùa thiêng dẹp quỷ nên tài
Pháp môn phù thủy, nhiều người cao tay.
33.Suy
thế sự hàng xay sáo cả
Nghề chỉ thường mà hóa vẻ vang
Đôi tầng quang máy âm dương
Vận lương nhà có chuyển lương nhà nghèo.
34.Được
lờ lãi nuôi heo chật cũi
Nhờ Thổ công miệng với ra tiền
Rồi ra kể đến tư điền
Bốn trăm tư mẫu dưới trên cấy cày.
35.Năm
Tân hợi (1851) nhớ ngày vỡ nước
Nước sông vào thêm được bồi cho
Đồng làm chẳng tốn công phu
Mỗi năm hai vụ lúa ngô đầy nhà.
36.Trong
lại có ao quà một mé
Bước chân ra quà mẹ, quà con.
Bởi vì muống tốt, cần non
Cua mông đất mọc dễ bàn tiền mua.
37.
Thọ Trưng vốn từ xưa phụ ấp.
Chiếu “Tư văn” năm giáp ngồi chung
Đến khi tăng giảm binh nhung
Phải thêm một lính vùng vằng lẩy ra.
38.
Đức Bác (25) có dân ta lập trại
Đời Cảnh Hưng (26) kể lại xa gì
Bây giờ các họ, các chi
Người thì văn học, người thì hào hoa.
39.
Vui phong thổ (27) lắm nhà thanh lịch
So trong vùng Lập Thạch kém ai
Ơn trên rậm của rậm người
Quê hương đất Tổ vẫn mùi hoa sen.
40.Trên
mái nóc tiếng truyền mãi đó.
Từ cha ông cụ mọ về sau
Cùng dân ta lại mấy nhau
Đường ăn, lối ở lấy câu ân tình.
41.
Nay bốn bể văn minh gặp hội
Cái trí khôn mang tới kịp người
Già thời cưỡi ngựa rong chơi
Sinh con thì phải tìm nơi học hành.
42.
Người có chí công danh hẳn có
Bước thân hào từ đó bước ra
Đêm thu bày tỏ trăng ngà
Ngẫm xem phong cảnh ngân nga một bài.
Soạn năm Duy Tân Giáp dần (1914). Ngày mùng
07 tháng 8.
LÊ KIM THUYÊN sưu tầm
-------------------
Chú
thích.
Bài này được sưu tầm năm 1992, tại xã Thượng
Trưng huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
1. Hùng lạc: Thời đại lịch sử dài 2622 năm
(2879 – 258 Tcn), thuộc họ Hồng Bàng, quốc hiệu Văn Lang, kinh đô Phong Châu.
(Việt Trì).
2. Tả hà: Bờ bên trái sông Hồng.
3. Phong Châu: Nay là huyện Vĩnh Tường.
4. Tổng: Đơn vị hành chính triều Nguyễn, cấp
thứ 5 trên xã, dưới huyện.
5. Cầu Giót: Cây cầu ở xã Thượng Trưng.
6. Lâm mới:
Còn gọi là “tích” Lâm, một xóm mới lập vào cuối đời Lê.
7. Đan Giang: Tên cũ là Đan Dương, nay thuộc
xã Phú Thịnh, cùng huyện.
8. Lâm Giang: Tên đọa sông chay ra tích Lâm.
(“tích” ở Thượng Trưng nghĩa là khu dân cư như thôn, xóm).
9. Hương cống; Danh hiệu đõ thi Hương triều
Lê, cử nhân triều nguyễn.
10. Sinh đồ: Danh hiệu thi đỗ bảng phụ triều
Lê, tú tài triều Nguyễn.
11.Chùa: Chùa Bảo Quang . Nay đã xếp hạng di
tích cấp Quốc gia.
12.Quán Đề, tên quán ở xã Thượng Trưng.
13.Quán Giáp,. Tên quán ở xã Thượng Trưng.
14.Thôn Trình, một thôn của xã Thượng Trưng.
15.Cửa Tuệ: Cửa Phật.
16. Quán Đơi: Cũng có tên là xóm Cá Đối,
thuộc xã Thượng Trưng.
17. Hội Tư văn: Hội ở làng, chuyên lo việc
giữ gìn lễ nhạc, chế đọ đạo thống của thánh nhân xưa truyền lại.
18. Thọ: Theo tục lệ xưa, người 50 tuổi bắt
đầu được tính vào sổ thọ (sơ thọ); 60 tuổi là “trung thọ”; 70 tuổi là “thượng
thọ”;, 80,90 thuổi là “thượng thượng thọ”. 100 tuổi là “thiên tước”, tuổi giời.
19. Tuần Khoan: Nhân vật ở xã Thượng Trưng,
chưa rõ sự tích.
20.Rừng Sở: Tích xưa ở Trung quốc, vua Sở
mất con hươu, mà rừng nước Sở trụi hết, rừng hết vì tìm hươu.
21. Lưới Thang: Vua Thành Thang nhà Thương
(1783 – 1754 Tcn), diệt vua Trụ rối lập vương triều Thương.
22. Cống: người đỗ khoa thi Hương.
23. Nghè: Người đỗ khoa thi Hội thi Đình đỗ
tiến sĩ.
24. Tân hợi: Năm 1851, đê sông Hồng vỡ ở xã
Thượng Trưng.
25.Đức Bác: Nay thuộc huyện Sông Lô.
26. Cảnh hưng: Miếu hiệu vua Lê Hiển Tông
(1740 – 1786).
27. Phong thổ: Phong tục và thổ nghi của một
địa phương, một vùng đất.