THÔNG TIN VỀ NGÔI ĐỀN THỜ TẢ TƯỚNG QUỐC
TRẦN NGUYÊN HÃN Ở XÃ SƠN ĐÔNG.
Lê Kim Thuyên
Tả tướng quốc Trần Nguyên Hãn 陳 元
捍 tự chìm thuyền
ở bến Đông Hồ 東 湖 xã Sơn Đông, nay thuộc
địa bàn thôn Đa Cai 多 該 ngày 26 tháng 02 năm Kỉ dậu (năm
1429) dưới triều vua Lê Thái Tổ húy Lợi, hưởng dương 39 tuổi. Đó là một độ tuổi
đang cường tráng về thể trạng và minh mẫn về trí tuệ.
Tuy nhiên, đang thời kì ấy thì xảy ra sự việc ở bến Đông Hồ. Khi nghe tin
tức khắc hoàng đế Lê Lợi đã nổi giận. Theo trong sách “Đại Việt thông sử” 大 越 通 史 của tác giả Lê Quý Đôn viết ở thế
kỉ 18 thì nhà vua đã lập tức ra chiếu chỉ tịch thu nhà cửa ruộng đất, bắt giam
vợ và con của ông Hãn. Nguyên thư chép là: “ Sự văn, chiếu thúc kì thê tử, điền
sản” 事
聞 上 詔 叔 其 妻 子 田 産. ( Bản A 1389, viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội).
Về việc này, sách “ Khâm địmh Việt sử thông giám cương mục” 欽
定 越 史 通 鑑 綱 目 của Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn vào đời vua Tự
Đức (1848-1883 có đoạn viết nhận xét về vua Lê Thái Tổ: “ Nhà vua… kíp khi lên
ngôi, quy định thuế khóa, chia ruộng đất, ban hành luật lệnh, mở khoa thi, tổ
chức quân cấm vệ, cắt đặt quan chức, tưởng lục công thần, dựng trường học…quy mô
sáng nghiệp có thể là rộng lớn, nhưng hay nghi kị, đa sát, đó là chỗ kém của nhà
vua. (Xem Cương mục bản dịch tập IX trang
30, nhà xuất bảnVăn Sử Địa Hà Nội năm 1969 ).
Tuy nhiên, về việc làm của mình đối với Trần Nguyên Hãn, về sau cũng có lúc
nhà vua đã có tỉnh ngộ. Bằng chứng là trong cuốn “Hoàng việt xuân thu” 皇 越 春 秋, viết ở cuối thế kỉ
XVI đã có ghi: “Từ sau sự việc Trần Nguyên Hãn ở sông Lô, nhà vua (Lê Lợi. LKT) vẫn thường nhắc nhở rằng: Chỉ vì Trẫm
chót nghe theo lời vu cáo của người ta, nên đã triệu hồi ông Hãn về kinh đô, vậy
mà gây nên họa cho ông ấy. Nếu không, ông ta đã chẳng tự gây nên nông nỗi thế.
Mãi về sau, người đời vẫn cho là Trẫm bạc với công thần, đẻ tiếng cười đến nghìn
năm vậy. Nói rồi, vua tự nhiên rơi nước mắt”. ( Bản viết, tờ 3b).
Viết ở thế kỉ XVIII, nhà Sử học Lê Quý Đôn cũng đã nhận xét : “ Sau này,
vua Thái Tổ hối hận thương hai người bị oan (tức Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn.
LKT), lại biết bọn Lê Quốc Khí đều là
hạng tiểu nhân xảo quyệt , nên rất ghét chúng”. Ông còn viết tiếp : “Về sau bọn
chúng đều có việc bị đuổi, nhà vua xuống chiếu bảo các quan rằng: bọn Lê Quốc
Khí, Trình Hoành Bá, Lê Đức Dư mà trong thiên hạ có kẻ mưu phản cần tố cáo cũng
không cho bọn ấy được tố cáo”.
Rồi nhà vua mới sai lập đền để cầu đảo, phong cho làm Tả quốc Trung liệt đại vương, động chủ huyện
Lập Thạch, ngôi đền do dân thờ tự. (Tài liệu của sách Hoàng Việt xuân thu).
1. Lịch sử xây dựng.
Đó là nguyên do để có ngôi đền thờ Tả tướng quốc ở xã Sơn Đông như sách “Đại
Nam
nhất thống chí” 大 南 一 統 志 tỉnh
Sơn Tây, mục đền miếu ghi chép: “Đền thần Tả tướng họ Trần ở xã Sơn Đông huyện
Lập Thạch, thần họ Trần, húy là Nguyên Hãn, người xã ấy”. (Bản dịch tập 04, trang 228. nhà XB KH-XH Hà Nội năm 1971). Nay thuộc
về thôn Đa Cai xã Sơn Đông.
Như vậy ngôi đền đã dược dựng lên từ rất sớm, đầu thế kỉ XV. Đến thời vua
Lê Nhân Tông vào năm Diên Ninh thứ nhất (1454) do ông được minh oan “trả lại
gia sản ruộng đất, tha ra vợ và con” nên ngôi đền có nhiều thuận lợi để được tu
sửa và mở rộng quy mô.
Bức hoành gian chính điện có 4 chữ Khai Quốc Nguyên Huân
Về việc lập đền, sách “Sơn Tây tỉnh chí” 山 西 省 志 , tài liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội (bản A 857, tập hạ, tờ 35b-36a) cho hay: “ Công một hậu pha trứ linh dị. Phương dân tức kì cựu trạch lập từ, tuế nguyệt chí tế” 公 沒 後 頗 著 灵 異 方 民 即 其 舊 宅 立 祠 歲 月 致 祭. Dịch là: Sau khi ông mất, trở nên linh dị. Dân địa phương nhân nền nhà cũ dựng ngôi đền, tháng năm đến làm lễ tế. Như vậy, thời gian tính từ khi khởi lập đến nay đã vào khoảng 584 năm tồn tại và phát triển. Mục “nhân vật” sách “Đai
Như vậy là suốt quá trinh hơn 500 năm qua chỉ thấy sách sử viết về việc dân
lập đền thờ và thờ cúng, không hề thấy nhắc nhở gì đến việc vợ và con ông trở về
nơi quê cũ. nhận lại điền sản và thờ cúng ông. Hương ước làng Quan Tử chép về
việc thờ cúng của dân làng là như thế này: “Ao công là Ao Cá có 01 mẫu 03 sào
10 thước để làm hương đăng ở đình Thượng”.( Xem HƯ.3423, trang15, tư liệu viện TT KH-XH Hà Nội).
Ngày nay còn lưu giữ được các thư tịch ở ngôi đền trong đó có phần chép các
bài thơ “đề bích” (đề lên vách-tường) của các nhà chí sĩ xưa từng đến viếng, có
những câu ý vị về ngôi đền như của các vị sau đây:
- Nguyễn Văn Tính, người xã Cựu Hào
huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định, thi đỗ TS khoa Tân Sửu niên hiệu Thành Thái 13
(1901) triều Nguyễn:
便 是 東 阿 別 有 天
Tiện thị Đông A biệt hữu thiên.
(Ấy là mảnh trời riêng của nhà Đông
A (Trần).
- Song Lãng TS người quê lúa Thái Bình:
十 載 經 輪 茅 屋 裏
Thập tải kinh luân mao ốc lí.
(Mười năm xông pha về với ngôi nhà
tranh).
- 鳳
嶺 歸 來 任 故 吾
Phượng lĩnh quy lai nhậm cố ngô.
(Trở về đỉnh gò Phượng nơi nhà xưa).
- Hoặc là như TS Nguyễn Quỳnh:
兵 火 不 恢 香 火 地
一 新 廟 貌 久 重 輝
Binh hỏa bất khôi
hương hỏa địa
Nhất tân miếu mạo cửu trùng huy.
(Binh lửa không có ở nơi đây, nơi
đất ông cha ở lại
Một lần làm đền miếu mới, đẹp đẽ
đến chín tầng mây).
Đó đều là những chứng cớ để năm 1924, viên tuần phủ tỉnh Vĩnh Yên là TS Nguyễn
Văn Bân viết trong tập địa kí “Vĩnh Yên phong thổ kí” 永
安 風 土 記 là
ngôi đền tọa lạc trong khuôn viên “Nhân cố trạch khởi từ miếu” 因
故 宅 起 祠 廟.(Nhân nhà cũ, dựng đền miếu).
Về quy mô của ngôi đền xưa như thế nào thì không có tài liệu để tham khảo.
Chỉ biêt qua tương truyền là có hướng nhìn thẳng ra sông Lô, là hướng tây nam theo
hướng nhà cũ từ thời sinh ra Trần Nguyên Hãn, có cổng bước thẳng xuông ao Cá 泑 個, là đầu nguồn của một dòng
chảy từ đó ra sông Lô qua cửa sông được gọi là Cống Khẩu 貢
口 phía bên trên
bến Đông Hồ 東 湖,
nơi thuyền của Tả tướng hàng ngày vẫn ra vào. Cũng do hướng ấy mà trong làng đàn
ông thì nhút nhất, đàn bà thì táo tợn mà kinh tê thì kém thịnh vượng, nên về
sau mới có sự thay đổi.
Ngôi đền ngày nay tương truyền theo phong thủy là toạ giữa trán con hổ dữ
trong hình cảo “mãnh hổ xuất lâm” 猛 虎
出 林 (hổ
dữ lìa rừng) trong
số hình thế “ngũ hổ quần dương” 五 虎
群 羊 (năm con hổ vờn con dê) của một tập hợp
những đỉnh gò ở phía sau ngôi đền mà nay vẫn còn địa danh là “hổ quần” 虎 群. Con hổ đang rình bắt một
con lợn đang đi ăn là hình tượng của quả gò có địa danh là Gò Hóp 塸 哈. Phía chính diện ngôi đền
lầ quả gò hình tròn dân điạ phương vẫn goi là Gò Gai 塸
荄, vì là hình tròn như miệng trống nên được gọi là Gò Trống 塸 𤳢, cùng sánh với quả gò ở
bên phải là Gò Rạch 塸 澤 mà nhân dân địa phương ví là Gò Chiêng 塸 鉦: Bên chiêng, bên trống trong tâm linh thờ tự.
Theo trong hồ sơ xếp hạng của nhà Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phú lập tháng 06 năm
1983 (cấp bằng công nhận di tích Lich sử-Văn hóa cấp Quốc gia năm 1984) thì ngôi
đên trước năm 2012 đã được sửa chữa 03 lần:
* Lần 01 vào thời kì đầu của triều Nguyễn là căn cứ vào các hình thế tạo
dáng của các họa tiết trang trí ở các đầu bẩy nhà tiền tế.
Tuy chưa xác định được niên đại chính xác của lần tu sửa này, nhưng cũng đó
là điểm khởi tạo của ngôi đền có hướng đông nam trong khuôn viên ngôi nhà cũ như
hiện nay.
* Lần thứ hai tu sửa vào năm Giáp tuất là năm Tự Đức thứ 27 (1874), dòng lạc
khoản này được ghi ở câu đầu phần thượng cung
嗣 德 甲 戌 貳 拾 柒 年 重 修 nên đây
là phần làm thêm thượng cung để hình thành kiểu dáng chữ “Đinh” (丁) cho ngôi
đền.
* Lần thứ ba là lần cuối cùng trước năm 1945 vào năm Kỉ mão đời vua Bảo Đại
(1939), trên xà dọc ngoài gian tiền tế còn hàng chữ: Bảo Đại thập tứ niên, tuế
thứ Kỉ mào trùng tu. 保 大
拾 肆 年 歲 次 己 卯 重 修. Lần trùng tu này lát gạch hoa ở nhà tiền tê, dựng tam
quan, lát sân, xây tường hoa hai bên sân từ tiền tế tới tam quan.
Tổng thể ngôi đền
như vậy là có hai khối kiến trúc.
- Khối tam quan đền
là một tòa nhà chồng diêm 04 mái theo kiểu “thượng thực hạ hư” hai bên đốc xây
bằng gạch Bát Tràng. Hai bên đầu hồi có hai gian gác lửng để treo chiêng trống.
Giữa là cửa vào cấu trúc kiểu “thượng song hạ bản” gồm 04 cánh. Có hai pho tượng
lực sĩ đứng gác tạc băng gỗ mít sơn son thếp vàng, bên trên có bức hoành ba chữ
đề “Tối linh từ” 最 靈 祠 (đền thiêng bậc nhất).
Cổng đền có 07 bậc xây gạch từ đường cái mà lên đến sân đền dùng làm nơi thực hành
lễ tế.
- Đền chính là tòa
kiến trúc chữ “Đinh” (丁) gồm 02 gian thượng cung nối
với tiền tế bằng 01 gian “ồng muống” gồm 06 chiếc cột. Cửa thượng cung có xà giường,
trên lắp ván mê chạm hình “lưỡng long triều nguyệt” 兩 龍
朝月, gian giữa
đặt đồ thờ tự cùng cỗ long ngai bài vị ghi hàng chữ thánh tâm về tước hiệu của
người. Hai bên cửa thượng cung treo một đôi câu đối thờ của tác giả là người làng
Quan Tử thi đỗ hai khoa Tú tài (Tú kép) triều Nguyễn tên là Trần Danh Súy. Như
sau:
藍 山 相 業 存 靈 地
瀘 水 臣 心 對 義 天
Phiên âm:
Lam Sơn tướng nghiệp tồn linh địa
Lô thủy thần tâm đối nghĩa thiên.
Là đôi câu đối
hay nhất có trong đền, cả ý về sự nghiệp và kết cục của Tả tướng chữ dùng trong
tiểu đối. Nghiã là:
Nghiệp tướng Lam Sơn còn linh địa
Lòng “Tôi” Lô thủy có trời hay.
Tòa tiền tế có
05 gian hai dĩ kiểu kiến trúc “tứ trụ lòng thuyền”, “chồng rường” gồm 32
chiếc cột là một kiểu kiến trúc bề thế và vững chắc. Bốn góc nhà đều có chạy đao
xối. Nhang án thờ chính vị đặt chính giữa nhà tiền tế, bên trên đặt bát hương công
đồng bằng gốm Thổ Hà, hai bên có đồ “lỗ bộ” xếp theo hình “chữ môn” (門). Bên
trên treo bức hoành bốn chữ “Khai quốc nguyên huân” 開 國 元 勳 nghĩa là công đầu mở nước khó nhọc. Nội dung bức
hoành và đôi câu đối trên thâu gọn cả cuộc đời và sự nghiệp làm tướng của ông
Trần Nguyên Hãn và cũng là gói trọn cả tâm linh thờ tự về ông.
Tất cả công trình
kiến trúc to đẹp như vậy đều là công sức của nhân dân làng Quan Tử 官子 mà địa danh trước đó là xã
Sơn Đông 山 東
xây dựng nên. Bản TT-TS của xã Quan Tử kê khai là: “Vị Trần Nguyên Hãn, thời
sau khi ngài hóa hiển thánh, làng chúng tôi mới dựng đình thờ ngài”. ( Tư liệu viện TT KHXH Hà Nội FQ 4o 18/13.
trang 1197).
Cũng do ngôi đền
được khởi dựng từ thời Lê sơ, trùng tu nhiều lần vào đời Nguyễn nên hầu hết các
cấu kiện gỗ đều đã xuống cấp nặng nề. Bởi vậy sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh
Vĩnh Phúc được phê duyệt làm chủ đầu tư tu sửa, tôn tạo. Công việc trước hết là
hạ giải công trình cũ, chọn lại những chi tiết còn đủ tốt sử dụng lại. Đồng thời
mua gỗ lim (Tên khoa học Erythrophlocum
fordu Oliver) từ Lào bổ sung vào phần thiếu hụt của lần tôn tạo này. Kiểu
thức vẫn giữ theo nguyên vẹn kiến trúc cũ, gồm cả các họa tiết trang trí. Toàn
bộ phần nội thất đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy, màu sắc đỏ tươi hợp với
di tích đền tướng.
Năm 2012, công
trình được tiếp tục xây lát sân đền và mở
rộng dựng mới thêm hai nhà “tả mạc”, “hữu mạc”, làm hoàn tất nhà tam quan, tu
chỉnh lăng đặt hòn đá mài gươm tương truyền là kỉ vật từ thời còn mài gươm nuôi
chí lớn bên trong cây đa của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trồng khi về thăm, thành
một tổng thể công trình kiến trúc uy nghi, hoành tráng, Phần ngoại thất trước đền
cải tạo và xây hồ “bán nguyệt”, taọ thành cảnh quan phục vụ các dự án du lịch lịch
sử-sinh thái trong tương lai. Và trước hết là phục vụ tuần lễ văn hóa du lịch
do tỉnh tổ chức xuân năm 2013.
2. Thờ cúng.
Theo lời khai
trong TT-TS cuả lí dịch xã Quan Tử nơi thờ ông gọi là “đình Thượng”. Đó nguyên
là cái đồi ngày xưa ông mở trại làm nhà ở đấy, hợp kiểu đất sơn thủy rất là hữu
tình, có vẻ nguy nga và có cây cối sầm uất. Nơi ấy cấm giết súc vật, cấm trồng
trọt, cấm dân làm nhà ở đàng trước đàng sau.
Trong đền thờ bằng
long ngai, bài vị và áo mũ, đai,
kiếm. Tuy nhiên trong nhiều năm bài vị thất lạc nên chỉ có ngai không. Mãi đến
năm 1988, để chuẩn bị cho cuộc hội thảo Khoa học cấp nhà nước về thân thế và sự
nghiệp của ông mới có chương trình đi tìm về. Tuy nhiên cỗ long ngai và bài vị
hiện nay hiện đang thờ được đặt gọn trong lòng cỗ long ngai cũ vốn là của khu Đức
Lễ xã Sơn Bình xưa thờ ở Rừng Thần, sau khi miếu thờ không còn mới đưa về đặt ở
đình Ngõa làng Lai Châu được đem về thờ phụng từ đó đến nay. Thành ra trên điện
có hai cỗ long ngai lồng vào nhau và chỉ có một bài vị.
Trong năm, tại đền
tế lễ vào ngày sinh là ngày 01 tháng 02 và ngày hiển thánh là 04 tháng 10.
Trong hội thảo khoa học năm1988 xác định ngày mất là 26 tháng 02, từ đó nhân dân
thôn Đa Cai mới có cúng tế theo ngày đó. Còn ngày 04 tháng 10 là ngày tiệc mùa.
Riêng tiệc ngày sinh là ngày “Quốc tế”. Ngày ấy, các quan đầu tỉnh đại diện triều
đình về làm lễ tế.
Trong năm có một
ngày có lễ rước, đó là ngày 15 tháng 04, rước bài vị từ đền về đình hội sở (đình
Bác cổ) để lập “đàn nội” trong ngày tế Kì an. (theo trong Hư. 3423, tư liệu viện TT KH-XH Hà Nội). Từ năm 1946, lễ
rước này không còn nữa nguyên do vì tiêu thổ kháng chiến chống Pháp.
L K T
* Tài liệu tham khảo:
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục.
Quốc sử quán triều Nguyễn.
2. Đại nam nhất tống chí. Tỉnh Sơn Tây.
Quốc sử quán triều Nguyễn.
3. Đại Việt thông sử. Lê Quý Đôn.
4. Sơn Tây tỉnh chí.
5. Hoàng Việt xuân thu sách viết từ thế kỉ 16.
6. Nam
phong tạp chí năm 1924.
7 AJ. 1/8 kho Xã chí Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội.
8. Kho TT-TS Viện TT KH-XH Hà Nội.
9. Hương ước làng Quan Tử, tổng Đông Mật huyện Lập Thạch.
Tư liệu viên TT KH-XH Hà Nội.
10. Hồ sơ xếp hạng di tích của nhà Bảo tàng tỉnh Vĩnh Phú.
11. Tư liệu điền dã địa phương.
* Địa chỉ: Thôn Quan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch. Vĩnh Phúc.
ĐT: 02113828069’
DĐ: 0984550547.
Email:
thuyenlk@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét