TỂ
TƯỚNG LỮ GIA
Lê Kim Thuyên
Có
môt thời kì lịch sử mà giới sử học Việt Nam
tranh cãi là có nên chép vào lịch sử nước Việt Nam hay không, đó là kỉ Nhà Triệu của
Triệu Đà. Ở thế kỉ XV Nguyễn Trãi viết câu đầu trong bài Bình Ngô đại cáo:
… Xét như nước Đại Việt ta
Thực
là một nước văn hiến
Cõi
bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Trải Triệu, Đinh, Lí, Trần, Lê nối đời dựng
nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một
phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Song hào kiệt không bao giờ thiếu.
Sang thế kỉ XVIII, nhà sử học Ngô Thì Sĩ
trong sách “ Việt sử tiêu án” lại chưa
tán đồng quan điểm này.
Nhưng đó là truyện của lịch sử.
1.
Nứớc Nam Việt của Triệu Đà.
Họ Triệu, tên là Đà là viên quan uý, người
huyện Chân Định nước Hán, nhân lúc nhà Tần
ở phía bắc suy yếu đã nổi dậy cướp lấy đất Quế Lâm và Tượng quận, tự lập làm
Nam Việt Vũ vương, xưng đế đóng đô ở Phiên Ngung tức đất Quảng Châu Trung Quốc
ngày nay. Đất đai của Đà chiều ngang có
hàng vạn dặm, gồm cả đất đai của nước Âu Lạc thời Thục An Dương vương, đi xe
mui lụa màu vàng, cắm cờ tả đạo, mệnh gọi là “ chế”, chẳng kém gì hoàng đế
Trung Hoa. Truyền 05 đời làm vua: Trỉệu Vũ vương ( 207-136Tcn), Triệu Văn vương
( 136-124Tcn), Triệu Minh Vương (124-112Tcn), Triệu Ai vương (112Tcn), Triệu Thuật
Dương vương ( 111Tcn). “ Việt sử thông giám tổng luận” của Lê Tung in lên đầu sách
Toàn thư của họ Ngô có đoạn viết : Triệu
Vũ đế nhân loạn nhà Tần, chiếm lấy đất Lĩnh Biểu, đóng đô ở Phiên Ngung, cùng
với Hán Cao Tổ, đều làm đế một phương; có lòng nhân thương dân, có mưu trí giữ
nước. Vũ công khiến Tàm Tùng phải kính sợ, văn giáo khiến Tượng quận được chấn
hưng, lấy thi thư mà biến đổi tục nước, lấy nhân nghĩa mà cố kết lòng người, dạy
dân cày trồng, nước giầu binh mạnh,
đến như các việc sai sứ (sang
nhà Hán) thì lời lẽ khiêm tốn, Nam Bắc chung vui, thiên hạ vô sự, hưởng nước hơn
trăm năm, đúng là bậc vua anh hùng tài lược. Còn có một nhân vật lịch sử thời thời nhà Triệu trước công nguyên được nhắc
đến nhiều ở huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay, đó là ông Lữ Gia, vị tể tướng
thuộc kỉ nhà Triệu.
Vậy
ông là ai ?
2.
Ông Lữ Gia là người Việt.
Vào
thời Triệu Võ đế huý là Đà, ở bộ Cửu Chân, huyện Lôi Dương, phủ Nghệ An có một
gia đình ông họ Lữ tên huý là Tạo, có nghề làm thuốc trị bệnh cứu người. Vợ là
con gái nhà họ Trương tên là Châu, gọi là Trương Thị Ninh người bộ Vũ Ninh (
nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Hai người sinh được 07 người con nhưng đều đã mất sớm.
Đến năm ông ở tuổi 60, mới sinh tiếp một con trai vào ngày 10 tháng 02 năm Tân
hợi ( ? ), đặt tên là Gia. Khi lớn lên lại đặt tên là Lệ. Đến năm 15 tuổi thì
cha mẹ đều qua đời, mà nhà thì quá nghèo nàn, chẳng có gì lo việc tang ma. Mới
tự than rằng: Cha ta có tài, làm thuốc chữa được hàng nghìn con người, thế mà
chẳng thể cứu được bệnh nghèo của con mình. Người xưa có câu rằng “ lương y chi
tử, tất tử hồ”, nghĩa là chữ “ tử” là con của lương y cũng đồng nghĩa với chữ “
tử” là chết vậy!
Bởi thế ông mới qua bờ bắc sông Nhĩ Hà đến
nhờ người cậu ruột là Trương Viêm. Được tròn 03 năm, ông Viêm bị người bộ trưởng
ở Vũ Ninh là Đào Trịnh mưu sát hại, chí muốn báo thù nhưng vì tuổi còn nhỏ, sức
mỏng nên chưa thể làm nổi. Bởi vậy mới chuyển đến ở đất Ô – Lí thuộc Lâm Ấp, nương
nhờ vào vị Thiền sư chùa Hoàng Long đạo hiệu là Huyền tông.
Ổ đất Ô – Lí Gia ngày đêm vẫn mưu tính báo thù
cho người cậu. Tự thân ông khổ công không nguôi, mới chiêu nạp được độ vài trăm
người nghiã binh, Rồi dùng thuyền từ Linh Giang huyên Chí Linh tiến xuống cửa sông
Bạch Đằng, bỏ thuyền lên bờ, gặp ngay bọn Đào Trịnh ở khe núi Chung Sơn. Ông hăng
hái tiến đánh một trận giết chết bọn chúng. Rồi ông quay trở lại chỗ nhà người
cậu, bàn bạc với người nhà làm lễ tế cậu chu tất. Rồi mới trở lại đất Lâm Ấp. Rồi
cũng ở Lâm Ấp, ông kết hôn với 02 con gái nhà bộ trưởng đất ấy họ Hùng là Lâu Bảo
Hoa và Nhĩ Bảo Hoa, rồi xin trở về quê nhà.
Ở
quê được 02 năm thì gặp lúc Triệu Vũ Đế ( Triệu Đà) thăng hà, Triệu Văn vương lên
nối nghiệp ( 136 Tcn), các châu quận cử những người ngay thẳng, có trình độ hiếu liêm ( người
có học hạnh mà do địa phương tiến cử), văn võ đầy đủ học vấn rộng rãi về bộ
Cửu Chân cùng dự thi tuyển ở trường Nghệ An. Đến khi vào gặp nhà vua, ông lại có
tài ứng đối nên được phong làm chức “ Thị tòng tham quan” dùng để rèn luyện
nghi thức chính sự trong triều. Lại kiêm chức “Đóc lĩnh thuỷ đạo Long chu, tả
suý đô thống chế đại vương”. Sáu năm sau, lại được bái phong làm tể tướng ( “Đại
Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép, vào năm
124 Tcn Minh vương nhà Triệu lấy Lữ Gia làm chức Thái phó, tức là vào hàng “tam
công” của triều đình nhà Triệu). Bia đền Cả xã Liễn Sơn chép: Cùng với Triệu
Minh vương, vua tôi hợp đức, thiên hạ thái bình, muôn dân no đủ, bốn biển yên
vui phồn thịnh, Triệu Minh vương vì ông có công nên ban cho một chiếc búa “phủ
việt”, tỏ ý trường tồn cùng đất nước.
3.
Vai trò của Lữ Gia trong triều đình nhà
Triệu.
Về
việc này, Sử kí của Tư Mã Thiên chép khá tường tận: Lữ
Gia là thừa tướng 03 đời vua, tuổi cao, chức trọng. Họ hàng làm quan trường lại đến
hơn 70 người. Con giai lấy con gái vua, con gái lấy con giai, anh em tôn thất
của vua, lại thông gia với Tần vương ở Thương Ngô. Ông ở trong nước rất được
tôn trọng. Người Việt tin ông, nhiều người làm tai mắt cho ông. Ông được lòng đân
hơn vương.
4.Những lục đục trong triều đình.
Năm
113 Tcn, Minh vương khi còn làm thế tử, sang làm con tin cho nhà Hán ở Trường
An ( Bắc Kinh ) có lấy người con gái họ Cù ở Hàm Đan. Đến khi về nước lên ngôi,
giấu ấn của tiên đế là Triệu Đà, dâng thư sang nhà Hán xin lập Cù thị làm hoàng
hậu, Hưng làm thế tử. Năm ấy Minh ương mất, con thứ là Hưng lên nối ngôi, tức là
Ai vương, tôn mẹ làm thái hậu.
Khi trước, ở nước Hán, khi chưa lấy Minh
vương, hậu đã từng thông dâm vói người ở Bá Lăng họ tên là An Quốc Thiếu Quý. Năm
này, nhà Hán sai Thiếu Quý sang dụ nhà vua và thái hậu vào chầu. Khi ấy vua còn
ít tuổi, Cù hậu đến là người Hán,, Thiếu Quý đến lại tư thông. Người trong nước
biết, phần nhiều không theo thái hậu. Thái hậu sợ loạn nổi,, muốn dựa uy nhà Hán,
nhiều lần khuyên vua và các quan xin nội phụ nhà Hán. Bèn nhờ sứ giả dâng thư,
xin theo như các chư hầu ở trong, cứ 03 năm một lần vào chầu, triệt bỏ cửa quan
ở biên giới.
Năm 112 Tcn, thái hậu đã sửa soạn hành
trang lễ vật quý giá để vào chầu, Lữ Gia nhiều lần dâng thư can ngăn, vua không
nghe, nhân thế có lòng muốn phản lại thái hậu, thường cáo ốm không tiếp sứ giả
nhà Hán. Sử “Toàn thư” chép tiếp: Các sứ giả nhà Hán, đều chú ý đến Gia, nhưng
chưa thể giết được. Vua và thái hậu cũng sợ bọn Gia khởi sự trước, muốn nhờ sứ
giả nhà Hán trù mưu giết bọn Gia. Thái hậu bày tiệc rượu mời sứ giả đến dự, các
đại thần đều ngồi hầu rượu. Em Gia làm tướng, đem quân đóng ở ngoài cung. Tiệc
rượu mới bắt đầu, thái hậu bảo Gia rằng: Nam việt nội thuộc( Trung Quốc) là điều
lợi cho nước, thế mà tướng quân lại cho là bất tiện là tại sao? cốt để chọc tức
sứ giả. Sư giả còn đang hồ nghi, chần chừ chưa dám làm gì. Gia thấy tai mắt họ
có vẻ khác thường, lập tức đứng dậy đi ra. Thái hậu giận muốn lấy giáo đâm Gia, vua ngăn lại. Gia
bèn ra chia lấy quân lính của em dẫn về nhà., cáo ốm không chịu gặp vua và sứ
giả. ngầm cùng các đại thần mưu làm loạn. Vua vẫn không có ý giết Gia., Gia cũng
biết thế, vì vậy đến máy tháng không hành động gì. Thái hậu muốn một mình giết
Gia nhưng sức không làm nổi.
5. Binh biến trong triều đình.
Trước
tình trạng đó, thiên tử nhà Hán sai Hàn Thiên Thu và em của Cù thái hậu là Cù Lạc
đem 2000 quân tiến vào đất Việt. Thấy vậy, Lữ Gia bèn hạ lệnh cho người trong nước biét rằng: “
Vua còn nhỏ tuổi,, thái hậu vốn là người Hán
lại cùng với sứ giả nhà Hán dâm loạn, chuyên ý muốn nội phụ với nhà Hán,
đem hết đồ châu báu của tiên vương ( Triệu Đà) dâng cho nhà Hán để nịnh bợ, đem
theo nhiều người đến Trường An rồi bắt bán cho người ta làm đầy tớ, chỉ nghĩ mối
lợi một thời, không đoái gì đến xã tắc họ Triệu và lo kế muôn đời”.Bèn cùng với
em đem quân đánh, giết vua và thái hậu, cùng tất cả bọn sứ giả nhà Hán, rồi sai
người đi báo cho Tần vương ở Thương Ngô và các quận ấp, lập con trưởng của Minh
vương là Thuật Dương hầu Kiến Đức làm vua, gọi là Thuật Dương vương vào năm 111
Tcn.
6.
Phá Hàn Thiên Thu.
Tháng
11 mùa đông, quân của Hàn Thiên Thu đã vào cõi, đánh phá một vài ấp nhỏ. Lữ Gia
bèn mở một đường thẳng để cắp lương cho quân. Khi quân của nhà Hán đến còn cách
Phiên Ngung 4o dặm ( mỗi dặm bằng 444,44m), thì Lữ Gia xuất quân đánh giết đượcbon
Hàn Thiên Thu. Sai người đem cờ tiết sứ giả của Thiên Thu cho vào hòm để ở trên
núi Tái Thượng ( tức là đèo Đại Dũ), dùng lời khéo để tạ tội vói thiên tử nhà Hán,
mặt khác, lại phát binh giữ các chỗ hiểm yếu,
lập trận, chất đá ở giữa sông gọi là Thạch Môn.
7. Thế yếu bại binh.
Nghe
tin sứ giả Hàn Thiên Thu bị giết, Hán Vũ đế sai Phục ba tướng quân Lộ Bác Đức xất
phát từ Quế Dương; Lâu thuyền tướng quân xuát phát từ Dự Chương; Qua thuyền tướng
quân tên là Nghiêm xuất phát từ Linh Lăng; Hạ lại tướng quân tên là Giáp đem quân
xuống Thương Ngô; Trì Nghĩa hầu tên là Quý đem quân Dạ Lang xuống sông Tường
Kha, đều hội ở cả Phiên Ngung.
Mùa
đông năm 111 Tcn, tướng Hán là Dương Bộc đem 9000 quân tinh nhuệ vay hãm Tam Hiệp,
phá tan trận Thạch Môn, lấy được thuyền thóc của Nam Việt, kéo luôn cả các thuyền
ấy đi, đem mấy vạn người đợi Lộ Bác Đức. Bác Đức cùng Bộc hội quân tiến đến Phiên
Ngung. Bấy giờ Bác Đức có hơn 1000 người cùng tiến với số quân đi trước của Dương
bộc, gặp vương và Lữ Gia đang giữ thành. Dương Bộc tự chọn chỗ thuận tiện ở mặt
đông nam, Bác Đức đóng ở mặt tây bắc. Vừa chập tối, Dương Bộc đánh bại quân Triệu,
phóng lửa đốt thành. Bác Đức không biết quân trong thành nhiều hay ít, bèn đóng
doanh, sai sứ chiêu dụ. Ai ra hàng đều được Đức cho ấn thao và tha cho về để
chiêu dụ nhau. Dương Bộc cố sức đánh, đuổi quân Triệu chạy ngược vào dinh quân
của Lộ Bác Đức. Đến tờ mờ sáng thì trong thành đầu hàng. Vua và lữ Gia cùng vài
trăm người đang đêm chạy ra biển. Bác Đức lại hỏi những người đầu hàng biết chỗ
ở của Lữ Gia bèn sai người duổi theo.
Về
phần này bản ngọc phả ỏ đình Nhân Lạc chép: Nước Việt đã mất, ông mưu tính việc
khôi phục, mới đem theo số nghĩa binh mới mộ vài nghìn người, giữ vững miền thượng
lưu sông Lô, cùng với hai phu nhân đóng doanh riêng cố thủ. .Dựa vào thế hiểm của
núi Long Động trên núi Thét (núi ở xã Quang Yên huyện Sông lô) bí mật lẻn ra đánh tập kích quân Hán. Quân Hán mấy lần bị
thua, buộc phải trở lại kinh thành, Lộ Bác Đức sai người kết giao với bộ tướng
của ông là Chu Năng, bàn với Năng phản lại ông, hứa rằng sau sẽ cho Năng làm Toàn
Việt vương. Năng cùng quân Hán đánh lại ông ở bên sông Nhân Mục trên sông Lô.,
nhưng trận chẳng thành. Chu Năng lại theo đường núi Lãng Sơn ( núi Sáng) đánh úp,
ông phải rúa lui về bến Bạch Hạc (Phong Châu) đóng quân. Ngày hôm sau, Lộ Bác Đức
đem quân đến vây, quân giặc cả bốn bè xông lên. Ngựa không còn dùng được quân
Việt tán loạn, chỉ còn một mình ông tả xung hữu đột, thế khó đương nổi. Ông mới
ngửa mặt lên giời than rằng:
出師為捷申先死
長史英雄淚滿衾
Xuất sư vi tiệp, thân tiên tử
Trường
sứ anh hùng lệ mãn khâm.
Nghĩa
là :
Ra quân chưa thắng, thân dã chết
Khiến bậc anh hùng lệ chứa chan.
Ông
đánh tiếp một hồi, liền sau đó ông bị một viên tướng Hán chém một đao sát thương
ngay trong trận. Triệu Đà chết, nước Nam Việt cũng mất.
Bình luận về việc này, trong sách Việt Giám Thông Khảo Tổng Luận in lên đầu
sách Đại Việt Sử Kí Toàn Thư của sử
thần Ngô Sĩ Liên do Lê Tung biên soạn có đoạn : Minh vương buổi đầu nối nghiệp, yên
vui buông thả. Cù Hậu dược yêu, vợ Việt bị bỏ, trong nước không hoà, kỉ cương đại
loạn. Ai vương tuổi ấu thơ, chưa biết lẽ trị nước, mẫu hậu kiêu dâm, quyền thần
chấp chính, mà cơ nghiệp họ Triệu rút cuộc lụn bại. Thuật Dương vuơng là anh Ai
Vương, lập nên bởi tay quyền thần, trí kém sức yếu, giặc mạnh xâm lấn mà cơ đồ nhà
Triệu từ đấy xụp đổ. Xét tai hoạ của Ai Vương, tuy ở Lữ Gia, nhưng thực ra là
do ở Minh Vương yêu chiều Cù Hậu mà gây ra. Nữ sắc làm nghiêng đổ nước nhà như
thế, phải lấy làm răn.
Bình
luận như thế là đúng với thời cục lúc đó của triều đinh nhà Triệu, nhưng có phần
khe khắt với Lữ Gia vì dù sao ông cũng chỉ là vị tướng già có lòng rất biết tự
tôn và xả thân vì nước đến cuối cùng.
Từ đó, nhà Hán lấy nước Nam Việt chia làm
09 quận là : Nam Hải (quận của nhà Tần, sau là đất Quảng Đông của nhà Minh). Thương
Ngô ( nhà Đường gọi là Ích Châu, xưa là đất Âu Lạc, đất của nước Việt ta). Uất
Lâm ( nhà Tần là quận Quế Lâm, Hán Vũ đế đổi là tên này). Hợp Phố ( nhà Tần là
Tượng Quận, đời Minh thuộc Liêm Châu). Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đều
là Tượng Quận đời Tần). Châu Nhai, Đạm Nhĩ (nay là vùng đất đảo Hải Nam ).
Bắt đầu đặt chức Thứ sử cai trị một châu, Thái thú cai trị một
quận. Quận là cấp dưới cuả châu.
8.
Câu truyện hậu Lữ Gia ở Sông Lô.
Truyện
trong ngọc phả đình làng Nhân Lạc chép lai rằng: Sau khi bị một viên tướng Hán chém một nhát trọng
thương, Ông Lữ Gia vẫn cứ tả xung hữu đột phá vòng vây, chạy đến thôn Lữ Chỉ
huyện Thiên Bản (nay thuộc tỉnh Nam Định), gặp một bà lão. Ông mới hỏi rằng:
- Từ xưa đến nay, nguời không có đầu sống
được chăng ?
Bà lão liền trả lời :
- Người ta có sống được là nhờ ở thân thể
được toàn vẹn. Chưa từng nghe thấy người không có đầu mà có thể sống được bao
giờ!
Bà
lão vừa nói dứt lời, ông từ trên mình ngựa thét lên một tíêng, rồi nói :
一言封得英雄骨
萬古遺來恨淚長
Nhất ngôn phong đắc anh hùng cốt
Vạn cổ di lai hận lệ trường.
Nghĩa là :
Một
lời nói đổ xương anh kiệt
Muôn
năm mắt lệ hận còn dài.
Nói xong đổ gục ngay xuống chỗ đất ấy. Trong
chốc lát mối đã đùn lên thành ngôi mộ lớn. Nhân dân thôn Lữ Chỉ dựng ngôi miếu
thờ cúng ông. Sau khi Tể tướng đa hi sinh nơi chiến trường, như các tổng , huyện, xã nơi ông từng đi qua từ nơi chiến trận, những địa phương ngựa chạy máu rơi đầm đìa, nhân dân đều lập đền thờ phụng. Người đời sau có thơ vịnh rằng:
生為名將死為忠臣
萬古綱常係一身
江上土堆秋月桉影
往來人說呂公墳
Sinh
vi danh tướng, tử vi trung thần.
Vạn cổ cương thường hệ nhất thân
Giang thượng thổ đôi thu nguyệt ảnh
Vãng lai nhân thuyết Lã công phần.
Sống là danh tướng, chết làm trung thần
Muôn thủa cương thường một tấm thân
Gò đống trên sông trăng sáng tỏ
Người qua ngắm mãi Lã công phần
Dòng thánh tâm ghi: Thiết Sơn Cao Duệ: Chiêu hưu, Hiển hóa, Hồng trạch, Phu hưu, Tập cát, Đại vương thần vị
Truyền thuyết ở huyện Sông Lô kể lại rằng
: Khi Lữ Gia chết trận, có một con “chó
ngao” ngậm lấy đầu, chạy đến đầu núi trang Yên Thiêt (tức núi Thét), liền bị
thần núi ấy hiện lên lấy lại, chôn cất ở phía nam núi ấy.
Do là con “ chó ngao” là con vật mà ông
rất yêu mến. Phàm mỗi khi hành quân hay dừng lại ở đâu, đều rắt theo “ chó
ngao” cùng đến đó. Cho nên khi ông bị chém, con “ chó ngao” cảm nhớ ơn dức ấy,
ngậm lấy đầu mà chạy trốn đi, đến khi thần núi lấy lại, chôn cất ở phía Nam núi
ấy, con “chó ngao” tự vẫn chết. Ngày hôm ấy xã Yên Thiết lập miếu thờ phụng, gọi
là ‘Đền Am”, địa điểm ở xứ “Gò Chùa”, di tích đến nay hãy còn. Năm 2012. UBND
tỉnh Vĩnh Phúc cấp băng di tích LS – VH cấp Tỉnh – Thành phố.
Do là, con chó ngao là con vật mà ông rất
yêu mến. Phàm mỗi khi hành quân hay dừng lại ở đâu đều dắt con chó ngao cùng
đến đó. Cho nên khi ông bị chém, con chó ngao cảm ơn dức của ông, ngậm lấy đầu
mà chạy trốn đi. Đến khi tần núi lấy lại, con chó ngao tự đập đầu chết.
Lại nói, hai phu nhân họ Hùng
của ông cùng với ba thị nữ đem 300 quân đi trên 05 chiếc thuyền theo sông Lô mà
theo sau. Đến làng Thượng Nha, Hạ Nha huyện Phù Khang ( nay là Phù Ninh) rồi đỗ
lại đấy. Đó là ngày 12 tháng 05. Vừa thiêm thiếp đi, hai bà bỗng thấy một người
học trò, mình mặc áo xanh, tay cầm cờ vuông có đề chữ rằng:
天本瀘江已顯神
扶康立石望邊津
Thiên Bản, Lô Giang dĩ hiển
thần
Phù Khang, Lập Thạch vọng
biên tân.
Nghiã là:
Thiên
Bản, Lô Giang đã hiển thần
Phù
Khang, Lập Thạch ngóng bên sông
Chính phu nhân choàng tỉnh dậy mới biết
là vừa nằm mơ. Hai phu nhân phán đoán chưa rõ là điềm gì thì ngay lúc đó dời
thuyền lên bờ ở bến Thượng Nha, truyền binh sĩ thiết lập đồn luỹ doanh trại đợi
tin tức. Đến ngày 30 tháng 05 bỗng thấy quân Hán kéo đến ngày một mhiều, cờ xí
rợp đất, khí giới đầy trời, rồi vây kín hai phu nhân vào giữa. Hai phu nhân
không thể giải vây, ứa nước mắt mà than rằng:
Tướng công ỏ nơi nao, nay sự việc xảy ra
với thiếp là cùng đường rồi.
Tin tức ngầm cũng không thông do những
người qua lại đưa tin đều bị quân Hán giết chết. Đến giữa canh ba đêm đó, bỗng
thấy mưa to gió lớn nổi lên kín trời, sấm vang dậy đất, thấy ông từ phương đông
bắc lọt vào giữa vòng vây của quân Hán, gặp gỡ hai phu nhân nói cho biết rằng
ông đã bị quân Hán giết hai rồi. Nay hai phu nhân lại bị vây khốn ở nơi đây,
cho nên hiẻn linh để cứu giúp.
Giờ dần
( 03 – 05 h) ngày hôm sau, ông sai một đạo quân thuỷ đến tổng Nhân Mục lấy 10 con trâu đem về
doanh trại ở Thượng Nha, mở tiệc khao quân. Lại giết ba con gà trống, lấy
máu ăn thề, cùng nhau giết giặc để rửa sạch mối hận anh hùng. Xong tiệc khao
quân, ông biến thành đám sương trắng bay ngang qua sông từ bến Nhân Mục đến bến
Thượng Nha thẳng lên trời. Rồi lại thấy ông cưỡi ngựa, đội mũ hoa, thân mang
giáp, tay cầm thương vàng dài 10 thước từ trên không trung miệng thét lớn xuống
dưới quân Hán:
-Ta sinh làm tôi trung, chết làm thần. Ngày
nay chúng bay sao phản lại được ta, thát sao khỏi lưới trời !
Nói xong ông cầm đao “ thất hoả” xông vào giữa
vòng vây quân Hán, chém tướng Hán là Chu Năng và các quân sĩ tới hơn trăm
người. Quân Hán rối loạn ở sông Lô, phải rút lui tan tác. Rồi ông bay lên không
mà đi.
Đến vùng trên bến sông Nhân Mục, bỗng
thấy có hai chiếc thuyền con, hai phu nhân bước lên thuyền rồi nhìn theo. Bỗng
thấy chiếc thuyền bị vỡ ra một mảnh, phu nhân nhặt lấy nhìn xem chỉ thấy 04 chữ
“ phục ẩn thánh thần” (dấu ở trong có
thánh thần), hai phu nhân cảm tưởng như có dẫn đường mới trở lại bến Thượng
Nha, đến giữa dòng mới cùng nhau nhảy xuống sông tự vẫn.
Dân hai bên bến sông lập miếu
phụng thờ hai bà. Bốn thôn Thượng Nha, Hạ Nha huyện Phù Khang lập đền chính.
Đền miếu nơi đây linh ứng rõ ràng. Hàng năm cúng giỗ chính vào ngày 01 tháng
06.
Còn như đầu của ông, từ khi
chó ngao ngậm lấy, về sau máu chảy thấm những nơi chạy qua, tất cả đều lập miếu
thờ. Còn ở Phong Châu nơi chính sảy ra chiến trận xưa, nhân dân lập đền thờ
phụng. Lễ chính vào ngày 20 tháng 05.
Khi trở về trang Nhân Mục
huyện Lập Thạch (nay là huyện Sông Lô), sau khi ông mất, dân lập lại đền thờ
chính, huý là Nguyễn Triêu Lệ đại vương. Lệ tiệc giỗ chính vào ngày 10 tháng
05.
Xã Yên Thiết tổng Bạch Lưu
nơi mộ chính chôn đầu ông, lập miếu thờ phụng. Còn các xã của tổng Đạo Kỉ, tổng
Nhân Mục, các xã tổng Bạch Lưu nơi máu chảy đều lập miếu thờ. Các di tích hiện
còn.
Đời sau có thơ vịnh rằng:
生為忠將死為神
萬古綱常舊更新
夫婦一心同此節
留傳祠宇兩邊津
Sinh vi trung tướng, tử vi
thần.
Vạn cổ cương thường cựu canh
tân
Phu phụ nhất tâm đồng thử
tiết
Lưu truyền từ vũ lưỡng biên
tân.
Dịch là:
Sống
làm trung tướng, chết làm thần.
Muôn
thủa cương thường chẳng đổi thay
Chồng
vợ một lòng cùng khí tiết
Lưu
tuyền đền miếu hai bên sông.
Cũng vì sự tích ông chọn lấy 10 con trâu
ở tổng Nhân Mục mở tiệc khao quân, mà ở tổng này có tục giết trâu hiến tế. Sử
sách ghi lại rằng: Xã Bạch Lưu Hạ huyện
Lập Thạch , hàng năm nuôi 20 con trâu, cứ ngày 18 tháng giêng hoặc ngày 28
tháng 12 đặt đàn tế thần ở ngoài nội, cho trâu uống rượu, rồi lùa vào trong cái
chuồng có tường đất xung quanh cho trâu chọi nhau, con nào bị thua thì giết lấy
thịt để tế thần.
Còn làng Nhân Mục có tục thi bơi để tưởng
lệ hai phu nhân. Có ngôi “đền Bơi” để tổ chức các cuộc thi bơi đó.
Năm 2002, tục hội chọi trâu đẫ được khôi
phục lại, gọi là “ Hôi chọi trâu xã Hải Lựu” để tưởng nhớ Lữ Gia. Tổ chức vào
ngày 17 tháng giêng, có bài chúc văn làm theo lối mới tuyên đọc rất nhiều ý
nghĩa. Bài văn ấy có đoạn mở đầu như thế này:
Nhớ
Đại vương xưa,
Sinh
vi tướng, tử vi thần
Đức
sánh càn khôn, tài xoay vũ trụ.
Trung
dũng vẹn toàn, võ văn gồm đủ.
Lòng
trung ái trong triều, ngoài nội, thương sót muôn dân
Chí
kinh luân dọc đất, ngang trời, giúp vì nước Tổ.
Bao
trận sông Lô sôi nổi, giặc Hán hồn kinh
Mấy
năm núi Thét vang lừng, trời Nam
mặt tỏ.
Dư
uy mặt nước réo ầm ầm
Chính
khí đỉnh non soi rực rỡ.
Đầu
dẫu mất, thề không thua giặc, một thời lẫm liệt oai động lân bang
Kiếm
chưa mòn, sông núi reo thiêng, danh truyền lịch sử…
Sơn
Đông. Ngày 30 tháng 08 năm 2011
Tài liệu chính dùng để viết bài:
1. SỬ KÝ. Tư Mã Thiên. Đời Hán (Trung Hoa).
2. ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ. Ngô Sĩ Liên. Thế kỉ 15.
3. Việt sử tiêu án. Ngô Thì Sĩ.Thế kỉ 18.
3. Việt sử tiêu án. Ngô Thì Sĩ.Thế kỉ 18.
4. Bia thần tích Đền Cả xã Liễn Sơn Huyện Lập
Thạch, Có tên: VIỆT THƯỜNG THỊ ĐẠI LA THÀNH PHÙ KÍ TỨC HÀ THƯỢNG CỔ ĐẠI PHU HỰU
PHỤ MINH PHU NHÂN NGỌC PHẢ CỔ LỤC CHÍNH BẢN.
5. Ngọc phả đình Nhân Lạc xã Đôn Nhân huyện
Sông Lô: VIỆT THƯỜNG ĐẠI LA THÀNH DŨNG THÁNH ĐẠI VƯƠNG NGỌC PHẢ CỔ TRUYỀN.
Địa chỉ: Thôn Quan Tử xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch,
Vĩnh Phúc.
ĐT;
02113828069.
DĐ:
0984550547.
Email: thuyenlk@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét