BÀI
THAM LUẬN DỰ HỘI THẢO KHOA HỌC
Nhà Mạc và hậu duệ trên đất Vĩnh
Phúc.
----------------------
DANH NHÂN VĨNH PHÚC THỜI MẠC
Lê Kim Thuyên
Nhà nghiên cứu Lịch sử địa phương
Hội viên Hội Khoa học
Lịch sử Vĩnh Phúc.
Hội viên Hội Văn học-Nghệ thuật Vĩnh Phúc.
Nhà
Mạc chính thức có ngôi Hoàng đế với 05 đời vua từ Mạc Đăng Dung niên hiệu Minh
Đức năm thứ nhất 1527 đến Mạc Mậu Hợp niên hiệu Hồng Ninh thứ 02 (1592) thì kết
thúc. Cộng là 66 năm, không lúc nào không có những nhân vật người tỉnh Vĩnh
Phúc đứng trong bộ máy chính trị phò tá. Tuy hiện nay chưa tìm được những danh
thần võ tướng có công lao đặc biệt giúp cho các vua nhà Mạc trong thời ổn định
12 năm ở 02 vua đầu là Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh (1527 – 1540) cũng như
những năm sau ở thời Nam Bắc triều Lê - Mạc. Nên trong những con người thuộc
tỉnh Vĩnh Phúc phục vụ cho triều Mạc chỉ còn tìm thấy danh sách trong nền khoa
bảng triều Mạc, chép trong các sách “Đăng khoa lục” triều Lê và tư liệu trong
bi kí cũng như phả lục các họ còn ở địa phương làng xã Vĩnh Phúc mà ở hội nghị
này chúng tôi tính vào hàng “Danh nhân Vĩnh Phúc thời Mạc” theo đặt hàng của
Ban tổ chức.
Phải thừa nhận rằng, ở
triều Mạc thời vua nào cũng tổ chức được các kì thi đại khoa để kén chọn người
tài năng phục vụ cho triều đại mình. Từ năm Mạc Đăng Dung lên nắm quyền cai trị
đất nước mở khoa thi đại khoa đầu tiên vào năm Minh Đức thứ 03 (1529) đến năm
Mạc Mậu Hợp tổ chức khoa thi cuối cùng vào năm Hồng Ninh thứ 02 (1592) trong
vòng 64 năm đã tổ chức được 22 khoa thi TS, số lấy đỗ được là 483 người, trong
đó có những nhân tài kiệt suất như TN Nguyễn Bỉnh Khiêm, TN Giáp Hải. Đáng kể nhất là ở thời của vua Mạc Mậu Hợp
(1562 – 1592), tuy phải bôn ba khắp chốn ngoài kinh thành để tranh chấp về chính
quyền và quân sự với các vua Lê là Anh tông và Thế tông nhà Lê ở vào thế ngày
càng mòn mỏi, nhưng ông cũng đã tổ chức được 10 khoa thi, số lấy đỗ là 177 người.
Cho nên có thể nói, nhà Mạc noi theo quy chế thi cử của nhà Lê và giữ rất đều
đặn các khoa thi Hội trong các năm “thìn, tuất, sửu, mùi”, trong khi ấy nhà Lê
khoa cử bị đứt đoạn dài tới 29 năm từ 1526, tới năm 1554 dưới triều vua Lê
Trung tông Vũ Hoàng đế mới lại tổ chức được khoa “chế khoa” đầu tiên, số lấy đỗ
được 13 người.
Tổng số người thi đỗ đại
khoa dưới triều Mạc là 16 người.
Người Vĩnh Phúc thi đỗ TS
đầu tiên là ông Hà Sĩ Vọng mà các sách ĐKL chép là người xã Bình Sơn huyện Lập
Thạch. Thực ra, ông vốn là người xã Tuy Phúc huyện Lập Thạch, có nhà ở xã Bình
Sơn. Nay Bình Sơn thuộc về thôn Sơn Cầu xã Như Thụy huyện Sông Lô. Có đôi câu
đối ở từ đường họ Hà:
Bách thế lưu truyền,
tông tổ thanh bồi lai dã viễn
Nhất đường ca tụng, tử
tôn diệc diệp Vĩnh chi Tuy.
Ông thi đỗ năm 22 tuổi
khoa Ất mùi niên hiệu Đại Chính năm thứ 06 đời vua Mạc Đăng Doanh (1535). Xuất
thân làm quan tới chức Hữu thị lang bộ Lễ (tương
đương chức thứ trưởng thứ hai), phẩm trật ở hàng “tòng tam phẩm”. Được
phong tước “bá”, lấy một chữ trong tên quê hương ông, đặt là Tuy Lộc bá. Tên
ông hiện còn được ghi trên bia TS huyện Lập Thạch “Lập Thạch huyện Văn từ TS bi”
(Xem thác bản số 15503, kho bia Viện NCHN
Hà Nội).
Người có khoa bảng cao
nhất là ông Phạm Du, thi đỗ Bảng nhãn (Đệ
nhị giáp TS cập đệ Đệ nhị danh) khoa Đinh mùi niên hiệu Vĩnh Định năm đầu
(1547) đời vua Mạc Phúc Nguyên, năm 29 tuổi. Làm quan tới chức Tả thị lang bộ
Binh (tương đương thứ trưởng thứ nhất),
hàm tòng tam phẩm. Được vinh phong tước “bá”, đặt là Nghi Tuyền bá. Tên ông có
trong bia “Bản huyện tiên hiền tính danh khoa thứ kí” là bia TS huyện Yên
Lạc dựng năm Minh Mệnh 15 (1834) triều Nguyễn. (Xem thác bản số 14894, kho bia Viện NCHN Hà Nội) đặt trên xứ Đồng
Đậu. Ông người xã Tiên Mỗ huyện Yên Lạc, nay thuộc về thị trấn huyện lị huyện
Yên Lạc.
Thi đỗ ở hàng Hoàng giáp
có 03 người, là các ông Bùi Hoằng, Lê Dĩnh và Dương Đôn Cương.
Đặc biệt có ông Bùi Hoằng
người xã Thượng Trưng huyện Bạch Hạc nay là huyện Vĩnh Tường. Ông vốn là di duệ
Hoàng tộc nhà Lê, là con trai của Thủ Chính, tên chữ là Thủ Ước, tên hiệu là
Đức Trai, cháu nội của Bùi Thủ Chân, vị sơ tổ của họ Bùi ở Thượng Trưng. Theo
bản “Tông
tộc Bùi gia bảo” còn lưu giữ ở xã Thượng Trưng, thì Thủ Chân là con
trai của Cung Vương Lê Khắc Xương, chính là Lê Thủ Chân. Câu truyện về Thủ Chân
hơi dài dòng một chút. Số là, vua Lê Thái tông (con Lê Thái tổ húy Lợi) có 04 bà phi:
- Bà cả là Chiêu Nghi
Dương Thị Bí sinh ra Lê Nghi Dân.
- Bà hai là Bùi Thần phi
sinh ra Lê Khắc Xương.
- Bà ba là thần phi
Nguyễn Thị Anh sinh ra Lê Bang Cơ.(vua Lê Nhân tông).
- Bà tư là Tiệp dư Ngô
Thị Ngọc Dao, sinh ra Lê Tư Thành. (vua Lê Thánh tông).
Năm Nhâm tuất (1442), vua
Lê Thái tông băng hà đột ngột tại Lệ Chi viên. Lê Bang Cơ lúc đó mới lên 02
tuổi, được lên ngôi Hoàng đế, đặt miếu hiệu là Nhân tông, bà Anh buông rèm cầm
quyền chính, quyết định việc nước. Vì là dòng đích mà không được lên ngôi vua
nên mùa đông năm Kỉ mão (1459) Lê Nghi Dân đã giết vua Lê Nhân tông và Thái hậu
Nguyễn Thị Anh, tự lập làm vua đặt niên hiệu là Thiên Hưng, phong cho Lê Khắc
Xương làm Cung Vương, Lê Tư Thành làm Gia Vương. Các triều thần nhà Lê lúc đó
cho là việc phản nghịch, nên đã xướng suất cùng nhau giáng Nghi Dân xuông tước
“hầu”, rồi giết chết. Cứ lí thì Lê Khắc Xương đáng lên ngôi vua, nhưng lại có ý
kiến muốn đón Tư Thành để lên ngôi. Nhưng rồi lại e cái lỗi bỏ anh lập em như
vụ Bang Cơ, Nghi Dân, nên cuối cùng các triều thần cũng đến đón Cung Vương Lê
Khắc Xương để lập làm vua, nhưng Lê Khắc Xương đã từ chối. Cuối cùng mới đón Lê
Tư Thành lập làm Hoàng đế tức là vua Lê Thánh tông. Rồi do không hài lòng về
việc này, nên Lê Thánh tông đã bức hại một số triều thần, lại bức hại cả anh
trai mình. Nhân nghĩ đến chuyện xưa, khi Vua Thái tông mới lên 03 tuổi thì bà
mẹ sinh là Phạm Thị Ngọc Trần mất, được giao cho viên giám quan là Bùi Cầm Hổ nuôi dạy. Khi đã
là Hoàng đế, Thái tông đã lấy con gái của Bùi Cầm Hổ để trả ơn. Thái tông và
Bùi Quý phi sinh ra Lê Khắc Xương ngày 04 tháng 05 năm Canh thân (1440). Bởi
vậy Lê Thánh tông mới cho Khắc Xương mang họ Bùi là họ ngoại cũng là việc trả
ơn nghĩa, nhưng thực chất là loại bỏ anh trai ra khỏi họ “Hoàng tộc”. Con trai
của Khắc xương là Thủ Chân mang họ Bùi từ đó và gọi là Bùi Thủ Chân, trở thành
một vị “Hoàng tộc chân đất”. Bùi Thủ
Chân mang mẹ trở về xã Thượng Trưng, huyện Bạch Hạc, trở thành vị sơ tổ của họ
Bùi xã Thượng Trưng. Cũng theo “Tông tộc Bùi Gia bảo” kể trên thì ở Thượng
Trưng, Thủ Chân sinh 03 con trai là Đức Vĩnh, Thủ Chính, Từ Hạnh. Rồi Thủ Chính
sinh ra Đức Trai, tức là Bùi Hoằng vào năm Kỉ tị (1505). Việc một ông dòng dõi
“Hoàng tộc” nhà Lê lại ra thi và làm
quan với triều Mạc do đó cũng là việc dễ hiểu. Sau khi thi đỗ ở khoa thi Mậu
tuất niên hiệu Đại Chính năm thứ 09 đời vua Mạc Đăng Doanh (1538), Bùi Hoằng
được làm quan tới chức Tán trị Thừa chính sứ Thừa tuyên sứ ti trấn Hưng Hóa,
phong hàm Gia Hạnh đại phu, ban tước “bá”: An Thủy bá. Dòng họ ông thờ bức
hoành phi 03 chữ “hàn mặc hương” cùng đôi câu đối:
Tần tảo chi gia bồi hậu
thực
Thư điền vô thuế tử tôn
canh.
Đúng là phong vị nhà Nho
thanh bần, trong sạch.
Cùng thi đỗ một khoa với
ông, còn có Lê Dĩnh, cũng quê xã Thượng Trưng, cùng thi đỗ ở bảng Hoàng giáp (Đệ nhị giáp TS xuất thân) ở danh sách
thứ 08 trong bảng năm 27 tuổi. Làm quan đến chức Thừa tuyên sứ ở trấn Hưng Hóa, phẩm trật hàng
tòng tam phẩm. Được vinh ban tước “bá”: Đằng Giang bá. Về trí sĩ, được tặng
chức thiếu bảo.
Trong hàng Hoàng giáp còn
có Dương Đôn Cương, người xã Vĩnh Mỗ huyện Yên Lạc. Thi đỗ ở khoa cùng với BN
Phạm Du năm 22 tuổi, làm quan tới chức Hữu thị lang bộ Hình, hàm tòng tam phẩm.
Được phong tước “bá”, đặt là Đam Giang bá. Là cháu nội của Dương Tĩnh TS đời
Hồng Đức.
Cũng ở khoa bảng triều Mạc, thuộc tĩnh Vĩnh
Phúc còn có 12 vị nữa thi đỗ ở hàng Đệ tam giáp ĐTS xuất thân, có danh sách như
dưới đây:
1. Hà Sĩ Vọng. Như đã kể
ở trên.
2. Nguyễn Hoằng Xước. Người
xã Lí Hải, nay là thôn Lí Hải xã Phú Xuân huyện Bình Xuyên. Thi đỗ khoa Mậu
tuất niên hiệu Đại Chính thứ 09 đời vua Mạc Đăng Doanh (1538). Làm quan tới
chức Đề hình Giám sát Ngự sử 13 đạo.
3. Vũ Doãn Tư. Người xã
Sơn Đông huyện Lập Thạch, nay là thôn Quan Tử xã Sơn Đông huyện Lập Thạch. Thi
đỗ khoa Tân sửu niên hiệu Quảng hòa năm đầu đời vua Mạc Phúc Hải, làm quan tới
chức Tả thị lang bộ Lại.
4. Phạm Phi Hiển. Người
xã Tĩnh Luyện huyện Lập Thạch, nay là thôn Tĩnh Luyện xã Đồng Tĩnh huyện Tam
Dương. Thi đỗ khoa Tân Sửu niên hiệu Quảng Hòa năm đầu (1541) đời vua Mạc Phúc
Hải. Làm quan tới chức phó Đô Ngự sử.
5. Tạ Hiển Đạo. Người xã
Đinh Xá huyện Yên Lạc, nay là thôn Đinh Xá xã Nguyệt Đức huyện Yên Lạc. Thi đỗ
khoa Giáp thìn niên hiệu Quảng Hòa thứ 04 (1544) đời vua Mạc Phúc Hải. Làm quan
đến chức Hiến sát sứ, tước Quảng Xuyên bá.
6. Lê Hiến. Người xã Thụ
Ích huyện Yên Lạc, nay là thôn Thụ Ích xã Liên Châu huyện Yên Lạc. Thi đỗ khoa
Canh tuất niên hiệu Cảnh Lịch năm thứ 03 (1550) đời vua Mạc Phúc Nguyên. Làm
quan tới chức Tả thị lang kiêm Đông các Đại học sĩ.
7. Đào Thái (có sách chép
là Đào Thái Nhiệm). Người xã Liễn Sơn huyện Lập Thạch, nay là xã Liễn Sơn huyện
Lập Thạch. Thi đỗ khoa Canh tuất niên hiệu Cảnh Lịch thứ 03 (1550) đời vua Mạc
Phúc Nguyên. Làm quan tới chức Hiến sát sứ ở Hiến ti.
8. Nguyễn Công Phụ. Người
xã Lí Hải huyện Yên Lãng, nay là thôn Lí Hải xã Phú Xuân huyện Bình Xuyên. Thi
đỗ khoa Tân mùi (1571) niên hiệu Sùng Khang thứ 06 đời vua Mạc Mậu Hợp. Làm
quan tới chức Thị lang. Sau khi nhà Mạc mất, ông quy thuận nhà Lê, làm quan tới
chức Tham chính.
9. Hà Nhiệm Đại. Người xã Bình Sơn huyện Lập
Thạch, nay là thôn Sơn Cầu xã Như Thụy huyện Sông Lô. Thi đỗ khoa Giáp tuất
niên hiệu Sùng Khang thứ 09 (1574) đời vua Mạc Mậu Hợp. Làm quan đến chức
Thượng thư bộ Lễ, hàm tòng nhị phẩm.
10. Vũ Hoằng Tổ. Người xã
Vân Ổ huyện Yên Lạc, nay là thôn Vân Ổ xã Vân Xuân huyện Yên Lạc. Thi đỗ khoa
Canh thìn niên hiệu Diên Thành thứ 03 (1580) đời vua Mạc Mậu Hợp. Khi nhà Mạc
mất, ông quy thuận nhà Lê, làm quan đến chức Tham chính.
11. Nguyễn Thế Thủ. Người
xã Lí Hải huyện Yên Lãng, nay là thôn Lí Hải xã Phú Xuân huyện Bình Xuyên. Thi
đỗ khoa Bính tuất niên hiệu Đoan Thái năm thắ 02 (1586) đời vua Mạc Mậu Hợp.
Khi nhà Mạc mất, ông quy thuận nhà Lê, làm quan đến chức Tham chính.
12.Dương Tông. Người xã
Linh Quang huyện Bình Tuyền phủ Phú bình trấn Thái Nguyên, nay là thôn Cao
Quang xã Cao Minh thị xã Phúc Yên. Thi đỗ khoa Kỉ sửu niên hiệu Hưng Trị năm
thứ 02 đời vua Mạc Mậu Hợp. Nhà Mạc mất, ông quy thuận nhà Lê, làm quan đến
chức Thị lang.
Kể trên là các nhà khoa
bảng triều Mạc, trong đó có 04 vị quy thuận về nhà Lê và đều được nhà Lê cho có
quan chức, chứng tỏ khoa bảng nhà Mạc cũng trân trọng như nhà Lê vậy.
Riêng Hà Nhiệm Đại, là
một vị TS có tài năng. Ông là nhà thơ có tập “Khiếu vịnh thi tập” lưu hành ở
đời là tập thơ “vịnh sử” về nhà Lê, nên còn có tên “Lê triều khiếu vịnh thi
tập”. Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội còn có lưu trữ. Về phẩm hạnh, ông
và anh trai là Hà Sĩ Vọng khi nhà Mạc mất, các ông trở về quê quán ẩn dấu. sau
vì giữ khí tiết, hai anh em ông đã đi trầm chu ở bến đò trên sông Lô, nơi xã
nhà. Nay theo người dân địa phương còn lưu truyền rằng những đêm trăng thanh,
gió lặng vẫn thấy hình bóng “thuyền Rồng” của các quan dưới đáy sông. Chỗ ấy
nay gọi là “Vực Tơm” xã Như Thụy.
Sơn Đông. Ngày 27 tháng 7 năm 2012.
L. K. T.
Tài liệu tham khảo:
* Bài kí đề tên TS khoa Kỉ sửu niên hiệu Minh Đức năm thứ 03
1529).
* Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục.
* Đại Việt sử kí toàn thư. Bản khắc in năm Chính Hòa 18
(1697)
* Bản huyện cựu Lê đại khoa chư tiên sinh qua tước tính danh
. Thác bản 16185.
* Lập Thạch huyện văn từ TS bi. Thác bản 15503.
* Bản huyện tiên hiền tính danh khoa thứ kí. Thác bản 14894.
* Tư liệu điền dã địa phương.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét