Đền Cậu Tây Thiên
Lê Kim Thuyên
Trên
đưòng bước lên đền Thượng thờ Quốc Mẫu Tây Thiên trên núi Thạch Bàn, sau khi đã
vượt qua suối Chùa Rọ ( suối sau đền
Thỏng), qua bãi suối Đá Liền, qua suối Đôi ( tức suối Tối) đến suối Trường
Sinh (hoặc còn gọi là khe Trường Sinh)
là bước tới đền Cậu, một ngôi đền nhỏ nhắn nhưng đầy bí ẩn và linh thiêng trong
trong sự huyền bí về di tích và sự tích. Linh thiêng bởi không ai giải thích
được ngôi đền có xuất xứ vì đâu, cũng như vị thần được thờ có sự tích là như
thế nảo để mỗi vị khách khi hành hương không thể không vào đền lễ bái dâng nén
tâm hương. Vì vậy khách và khói hương cứ nườm nượp hoà quyện với nhau, níu kéo
nhau, như gọi mời, mở đầu cho các cuộc cầu “Tài”, cầu “Lộc”, cầu “Tự”, cầu “
Duyên” lên đến đền Thượng.
Chưa
ai được rõ ngôi đền xuất hiện và có từ danh “đền Cậu” từ bao giờ. Chỉ mang máng
trong kí ức đời nọ truyền đời kia khi lên lễ trên đền Thượng thì đều có rẽ vào đền
Cậu dâng hương. Chũ “Cậu” khiến hình dung là vị
thần được thờ ở đây là còn nhỏ tuổi lắm, ở cái tuổi vừa ấu thơ, vừa công tử, vừa
nũng nịu khó chiều.
Vậy
ra là ngôi đền Cậu, được gắn với sự tích ngôi đền Thượng thờ bà Quỗc Mẫu không
biết có từ bao giờ. Phải chăng Cậu là con sinh của bà Quốc Mẫu?
Điều đó chưa một ai dám chắc, chưa từng là một
điều ai dám suy tư, nhưng có điều chắc chắn trong ý tưởng là ở đâu có hình tượng
về Mẫu thì gần như ở đó có bóng dáng của Cậu ( và Cô) như biểu trưng một sự
sinh thành.
Theo
những tìm hiểu ban đầu, thì Cậu ngự ở đây từ buổi đầu hoang vắng chỉ với một hòn
đá và một bát hương, một ngôi di tích phi kiến trúc và một tự khí chỉ giản đơn,
nhưng đã thu hút biết bao xu hướng tâm linh đổ về. Sự thiêng liêng buổi đầu thường
chỉ gằn bó giản đơn như vậy.
Một
hòn đá, một bát hương, đó là những dấu tích cổ xưa về tục thờ đá của người Việt
cổ, nay không chỉ gặp ở dãy Tam Đảo với tên núi Thạch Bàn (bàn đá), mà còn ở Lập
Thạch (đá dựng), Tam Triệt Thạch (đá ba roi) …rải rác trong các làng quê
Việt tỉnh Vĩnh Phúc.
Theo lời truyền lại đã thành huyền thoại thì nơi
thờ tự này có từ thế kỉ 17, thời mà ngôi đền Mẫu và ngôi chùa Tây Thiên ở vào
thời kì hưng thịnh theo như nội dung các văn bia còn được bảo tồn đến ngày nay.
Đến khoảng các năm 1986 – 1988 đã
tiến lên thành ngôi miếu thờ Sơn thần (thần
núi), như vậy là đã có kiến trúc.
Từ khi người Sán Dìu di cư đến
lập làng bản ở vùng chân núi Tam Đảo thì tục thờ đá cử người Việt cổ cũng dễ hoà
đồng với tục thờ Cúi của cộng đồng người này. Vì “ Cúi” bao hàm một nghĩa rộng
chỉ tất cả các vị thần thánh ma quỷ trên đời. Trong thế giới “Cúi” đó, người Sán
Dìu có niềm tin đặc biệt vào đá. Biểu hiện cụ thể là họ thường chọn một hòn đá
nào đó để gửi con mình để được hòn đá bảo hộ. Đứa bé nhận hòn đá làm bố nuôi,
ngày tết thì phải sắm sửa lễ vật đến cúng, đến tuổi trưởng thành mới làm lễ tạ, “ Cởi khoá” và thay tên.
Với quan niệm của người Sán Dìu đó thực chất là các hòn đá “bản mệnh” của các câu
bé, vì vậy mà họ dễ tiếp thu từ danh “đền
Cậu” để rồi cùng với người Kinh bảo lưu và phát triển.
Mở rộng ra, một cộng đồng cư
dân từ bên ngoài đến nhập cư là người Dao ở bản Thành Công xã Lãng Công huyện Sông
Lô cũng có tục thờ đá. Trong tín ngưỡng thờ cúng của người Dao thì cúng “Miếu”
là nghi lễ hết sức quan trọng. “ Miếu” đặt ở trong núi, nơi kín đáo yên tĩnh.
Chỉ gồm kê ba hòn đá. Đá phải chọn đá dưới lòng suối, loại cứng nhất: “ không sợ
lửa. không sọ kim khí, không sợ mưa nắng”. Đó là giá trị đích thực, cũng là giá
trị văn hoá. Mỗi hòn đá ấy là biểu tượng của một “ông vua”, phải có lễ “nhập hồn”,
tức là hòn đá phải dược thổi linh hồn trở thành “đá thiêng”. Ba hòn đá được bài
trí dưới một gốc cây cổ thụ trong rừng già bên bờ suối không có kiến trúc. Chỉ
có một bát hương và một mô đất sơ sài làm ban đặt lễ.
Xét ra như thế thì tục thờ đá
có ở nhiều miền và là tín ngưỡng của nhiều đân tộc.
Trở lại ngôi đền
Cậu Tây Thiên, có truyền thuyết cho rằng nơi đây Cậu đã tập trung và nuôi quân
trước khi đưa quân lên trình Mẫu. Còn với hệ thống các di tích thờ Mẫu được định
vị như hiện có thì Cậu hẳn có nguồn gốc từ tục hệ thờ sinh thực khí của người
Việt cổ mà bây gìơ quen gọi với thuật ngữ Linga - Yôni. Nói thực ra là giống đực
và giống cái, hai mặt đối lập hợp thành trong nguồn gốc của sự sinh sôi. Khi
Nho giáo phát triển thì được đổi gọi là âm dương, hai nguyên khí “ sinh lưỡng
nghi, sinh tứ tượng
“để
rồi ‘biến hoá vô cùng”, ấy là vũ trụ.
Ngôi đền được ban quản lí và
nhân dân chung sức tu sửa lại năm i993, sau 02 năm khu di tích danh thắng Tây
Thiên được cấp bằng công nhân là di tích Lịch sư- Văn hoá cấp quốc gia. Từ xa xưa
đến nay vẫn là điểm đánh dấu sự khởi nguồn tốt nhất cho mạch cảm xúc “Về với Mẫu”
của mỗi người khi đến với Tây Thiên.
Ngôi đền Cậu ngày nay, qua lớp
đắp của thời gian, lại đã trở thành một ban của hệ Mẫu Tứ phủ. Với danh xưng là
Cậu Quận hoặc Cậu Bé Hoàng., đó đều là các cậu bé thánh ở tuổi rắt ngựa, chăn
trâu. Có tất cả 12 Cậu trong bốn ban Tứ phủ công đồng, và thường chỉ có Cậu Ba
là hay về đồng, là giá đồng cuôí cùng trong 12 giá thường xuyên được thỉnh về.
Trong đền, thờ hai pho tượng
nhỏ đặt trong khám. Tượng đứng gồm 01 tượng nam, 01 tượng nữ, hình tượng ở tuổi
ấu thơ. Nam ,
đầu chí khăn cuốn vòng, ở hai bên phía tai có hai bông hoa rủ xuống, mình mặc áo
chẽn thắt đai vàng. Nữ, đầu đội khăn cuốn vòng mầu xanh cũng có bông hoa rủ xuông.Mình
mặc áo chẽn màu xanh, áo choàng màu xanh.
Về tính cách của Cậu, thường được
thể hiện qua lời văn của bài hát chầu khi thỉnh cậu về đồng gồm các đoạn:
Tục
truyền tháng 8 hội Cha
Tháng
3 hội Mẹ gần xa nức lòng.
Cậu
Bé Hoàng giục ngựa qua sông
Hèo
hoa Cậu vác, thương đồng Cậu phải đeo
Mấy
núi cũng chèo, thương đồng mấy núi Cậu cũng chèo
Mấy
sông cũng lội, mấy đèo cũng qua
…
Niệm chữ Di Đà, lâm dâm niệm chữ Di Đà
Vào
chùa Non nước Cậu hái hoa đem về….
… Cậu bé vào rừng nhặt đá ném hươu
Khi
Cậu lội qua suối
Nhặt
quả thiều biêu ném con gà rừng.
Cậu
di săn tiếng súng đì đùng
Cậu
đi bắn các cửa rừng vào ra.
Hươu
nai vô số hằng hà
Thượng
cầm hạ thú cũng phải ra hàng đầu.
Đêm
xuiân đốt đỉnh nhang trầm
Khói
bay nghi ngút, tuyết sang xuân thổi vào…
Về đồng, Cậu Bé Hoàng mặc quần
áo lố lăng, chít khăn đầu rìu, múa cây gậy hèo. Trong giá đồng, Cậu tỏ ra rất
nghịch ngợm mang tính cách của mục đồng chan trâu dắt ngựa cho các quan. Nói
nhiều, lại còn đánh bạc nữa.
Trong
25 giá đồng thường về hầu ở điên Mẫu, Giá đồng Cậu vui nhộn nhất, giửi toả được
những căng thẳng mệt mỏi củ các con nhang đệ tử trong suốt quá trình hầu đồng.
Tước toà thượng điện, hiện treo hai đôi câu
đối mới được đưa vào của thời nay.
Câu thứ nhất:
五色祥雲延聖御
功高扶國萬年長
Ngũ
sắc tường vân diên thánh ngự
Công
cao phù quốc vạn niên trường.
Nghĩa là:
Mây
lành năm sắc, nơi mời thánh ngự
Công
cao giúp nước, vạn năm còn mãi.
Câu thứ hai có lẫn chữ Nôm;
Vũ
đắc tường vân duyên thánh ngự
Cây
cao phù quốc vạn niên trường.
Nghĩa là:
Nước
mưa từ đám mây năm sắc, ấy là duyên từ nơi ở của đức thánh
Như
cây cao giúp nước, vạn năm còn dài.
Thế là từ khởi đầu ngôi miếu nhỏ phi kiến
trúc thờ Cậu trong tín ngưỡng phồn thực dân gian, qua thời gian của lịch sử
cùng với sự bồi đắp của tâm thức dân gian trở nên ngôi đền thờ thanh: Thánh
Cậu, có công với nước, với dân.
Sự giao thoa văn hoá trong tín ngưỡng diễn ra ở
ngôi đền Cậu là như vậy. Chắc chắn là còn có nhiều tiến trình lí thú hơn nữa.