Trong các nhân vật kiệt
xuất của lịch sử nước Việt Nam
chống ngoại xâm buổi đầu công nguyên, có bà Trưng Trắc – Trưng Nhị là anh hùng
đề danh thứ nhất trong sử sách.
Tuy nhiên, những thông
tin về nhân thân Hai Bà thì hết sức ít ỏi ,hiếm hoi. Tiếp cận gần gũi nhất về
niên đại của Hai Bà là các sách của các nhà chép sử đời Hán (Trung Quốc) thì họ coi Hai Bà là giặc
nên dưới con mắt nhìn thực dân, các sử gia ấy chỉ chép những sự kiện về đánh
dẹp, mà điển hình nhất là sự đánh dẹp của Mã Viện ở những năm 42 – 43 Cn là
được ghi lại rõ ràng hơn cả.
Các sách truyện truyền kì
Việt Nam xưa như “Việt Điên U Linh tập” của Lí Tế Xuyên đời Trần (Biên soạn năm 1329) ghi truyện cổ nước
Nam dưới dạng các truyền thuyết dã sử về Hai Bà Trưng, rồi ở cuối thế kỉ 15, có
2 ông Vũ Quỳnh, Kiều Phú soạn sách “Lĩnh
Nam Chích Quái” đều có chép đến truyện Hai Bà Trưng, nhưng cả 2 sách đều không
mảy may có thông tin riêng về nhân thân Hai Bà như ngày tháng năm sinh, năm
mất.
Các bộ sử có giá trị sử
liệu xưa nhất của nước ta như “Đại Việt sử lược”, tuy không ghi tên tác giả
biên soạn, nhưng niên đại được xác định là tác phẩm sử học biên soạn ở thế kỉ
14 (Đời Trần), ở quyển I. Mục: “Quan thú nhậm qua các thời đại” cũng chỉ chép
về Bà Trưng như sau:
- “Mã Viện đời Quang Vũ nhà Hậu Hán niên hiệu Kiến Vũ năm thứ 16 (40 sau
cn) có Trưng Trắc người huyện Mê Linh. Là con gái của quan Lạc tướng.
Trưng Trắc lấy chồng người huyện Chu
Diên là Thi Sách.
Người vợ tính rất hùng dũng, có điều làm trái phép, Thái thú
Tô Định lấy pháp luật buộc tội.
Trưng Trắc giận bèn cùng với người em gái là Trưng Nhị khởi
binh ở Phong Châu.đánh phá quận huyện. Dân ở Cửu Chân và Nhật Nam đều hưởng ứng cả. Bà chiếm được
65 thành ở ngoài phía Nam nhà Hán, rồi tự lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh.
Năm thứ 17, nhà Hán phong Mã Viện làm Phục ba Tướng quân đem
quân sang đánh Bà Trưng.
Năm thứ 18, Mã Viện cho quân đi men bờ biển, dọc theo thế
núi, đồn cây mở đường mà tiến có hơn ngàn dặm.. Quân Mã Viện tiến đến Lãng Bạc,
rồi cùng với Trưng trắc đánh nhau. Trưng Trắc không chống cự nổi phải lui về
giữ Câm Khê.”.
Ngoài ra không có thông
tin gì thêm.
Cũng ở đời Trần, năm
1333, Lê Tắc một viên chức người đời Trần (theo
hàng quân Nguyên Mông) biên soạn cuốn “An Nam chí lược”, được kể là bộ sách
ghi nhiều tư liệu lịch sử từ đời Trần trở về trước, nhưng cũng chỉ có thông tin
rất ít ỏi vè bà Trưng như sau ở phần “Tống tự” đầu sách: “Năm Kiến Võ thứ 16 (40 sau Cn), đời vua Hán Quang Võ, có người đàn bà
Giao Chỉ tên là Trưng Trắc làm phản, năm thứ 19 ( 43) sai Mã Viện qua đánh dẹp
yên, rồi dựng trụ đồng để làm giới hạn nhà Hán”.
Thề kỉ 15, có sách “Đại
Việt sử kí toàn thư” của Ngô Sĩ Liên thì
Bà Trưng được ghi thành một Kỉ: Kỉ Trưng Nữ vương:
“…Tên húy là Trắc. Nguyên là họ Lạc, con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh,
Phong Châu, vợ của Thi Sách ở huyện Chu Diên.
Thi Sách cũng là con Lạc tướng, con hai nhà tướng kết hôn với nhau….. Đóng đô ở
Mê Linh.
…Mã Viện…..đánh nhau với vua. Vua thấy thé giặc mạnh lắm, tự
nghĩ quân mình ô hợp, sợ không chống nổi, lui quân về giữ Cấm Khê (Cấm Khê, sử
chép là Kim Khê)…”.
(Bản dịch. Theo Bản năm Chính Hòa 18 (1697). Tập 1. Trang 156. NXB KHXH.
Hà Nội. 1998).
Đến triều Nguyễn, khi
biên soạn bộ sử “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, các sử thần cũng
không có thông tin gì mới khi viết:
“Năm Canh tí. (40 sau cn). (Hán , năm Kiến Vũ thứ 16).
- Tháng 2, mùa xuân. Người con gái quận Giao Chỉ là Trưng
Trắc khởi binh đánh đuổi thái thú Tô Định; Tự lập làm vua.
Vương vốn họ Lạc, lại có một họ nữa là Trưng. Là con gái quan
Lạc tướng huyện Mê Linh, quận Giao Chỉ, và là vợ Thi Sách người huyện Chu
Diên…..Bà tự lập làm vua, đóng đô ở Mê Linh.
- Năm Nhâm dần (42 s.cn), (Hán, năm Kiến Vũ thứ 18).
Tháng 3 mùa xuân. Quân mã Viện đến Lãng Bac, cùng quân Trưng
Trắc đánh nhau và phá tan được. Trưng Trức lui giữ đất Cấm Khê.”
(Bản
dịch tập 1. NXB Giáo Dục.1998. Trang 114).
Và có lời chú thích (nguyên văn là “lời chua”) về địa dah Cấm Khê như sau:
Cấm Khê: Sách Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên chua rằng: Theo sách Việt chí,
Cấm khê là Kim Khê, ở phía tây nam huyện Mê linh. Theo sách Nam Việt chí của
Thẩm Hoài Viễn, Trưng Trắc vào trong hang Kim Khê, hai năm mới bắt được. Theo
sách Phù Nam
kí của Trúc Chi trên chỗ khe núi nước chảy xói vào gọi là hang. Chương hoài
thái tử Lí Hiến chua cũng tức là đất huyện Tân Xương thuộc Phong Châu bây giờ.
Theo thế thì Cấm Khê phải ở vào địa hạt Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây, nhưng chưa rõ
đích là chỗ nào. Sử cũ cho là ở huyện Chân Lộc thuộc Nghệ An là nhầm. (Trang 115).
Như vậy, để tìm hiểu rõ
ràng hơn về nhân thân Hai Bà thì chúng tôi nghĩ rằng cần phải tìm hiểu ở các
nguồn thông tin khác, tức là tìm vào những di tích văn hóa vật thể cũng như các
dấu ấn văn hóa phi vật thể hiện đang còn ở những địa phương thờ cúng. Bởi vậy
chúng tôi đã tìm về với 2 nguồn tư liệu:
Một là: Những văn bản là
các sách ghi chép có tính chất thống kê về di tích thờ cúng Hai Bà, mang tư
chất là các sách “tự điển”. Trên tinh thần đó chung tôi dựa vào sự sao chép của
thôn Lương Yên (về sau thuộc tổng Thanh
Nhàn huyện Thọ Xương phủ Hoài Đức tỉnh Hà Nội trong sách “Đồng Khánh Địa dư
chí”, nay thuộc phường Thanh Nhàn quận Hai Bà Trưng thành phố Hà Nội) theo chính bản của bộ Lễ triều Lê soạn năm Lê
Cảnh Hưng 24 (1763) với tên sách “Nam Việt thần kì hội lục” 南越神祇會籙
(tìm đầy đủ các vị thần nước Nam Việt), ghi chép bài vị về 2824 thần
có danh sách thờ cúng, (Tư liệu Viện NCHN
Hà Nội, số đăng kí A.761).
Ở bản A.761. Tờ 18a có chép 2 vị thần có hàng chữ thánh
tâm:
- Duệ trí uy dũng tuy hưu phu nhân.
睿智威勇綏休夫人
- Dực thiên chế thắng
bảo tín phu nhân.
翊天制勝保信夫人
Nội dung hai phu nhân
chính là con gái của vị tướng triều Hùng là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Có:
Đền thờ chính: xã Hát Môn, huyện Phú Lộc, trấn Sơn Tây. (có sắc)
Các xã dân , huyện, trấn cùng phụng sự cộng 6 xã đều có sắc
phong 4 đạo. Gồm:
Châu Đồng Nhân huyện Thanh Oai trấn Sơn Nam .
Xã Phụng Công huyện Văn Giang trấn Bắc Ninh.
Trấn Sơn Tây có:
Xã Hạ Lôi huyện Yên Lãng.
Huyện Yên Lạc có các xã Xuân Đài, xã Quan Đài, xã Tiên
Đài đếu có một đạo sắc phong. (xem tờ 18b).
Bài này nhằm cung cấp tư
liệu về tĩnh Vĩnh Phúc.
Trong trấn Sơn Tây đời
cuối Lê có xã Hạ Lôi huyện Yên Lãng , sau là xã Mê Linh huyện Mê Linh, cùng
huyện Yên Lạc thuộc về địa giới tĩnh Vinh Phúc cũ. Đến tháng 08 năm 2008 mới
tách huyện Mê Linh về thành phố Hà Nội mở rộng. Điều đó khiến trong nghiên cứu
cùng phải đồng thời khảo sát tư liệu ở cả hai địa phương cấp xã này.
Ở đền Hạ Lôi, nơi quê
sinh của Hai Bà, chúng tôi chỉ còn tìm thấy 19 đạo sắc phong của các triều đại
xưa gồm Lê Trung Hưng, Nguyễn Tây Sơn và Nguyễn Gia Long. Trong đó:
- Có 03 đạo sắc biệt
phong bà Trưng Trắc của triều Lê và Nguyễn Tây Sơn.
- Có 03 đạo sắc biệt
phong bà Trưng Nhị của triều Lê và Nguyễn Tây Sơn.
- Có 05 đạo sắc hợp phong
hai vị “Trưng Nữ Vương” của triều Nguyễn từ Gia Long đến Đồng Khánh.
- Có 02 đạo sắc biệt
phong của đời Khải Định cho bà Trưng Trắc, bà Trưng Nhị.
- Có 06 đạo sắc phong cho
vị “Đặng Công đại vương”, tức là ông Thi Sách theo ý kiến giải thích của địa
phương. (Ở Hạ Lôi hiện nay còn họ Đặng).
Hai là : Để rõ ràng hơn,
chúng tôi đi tìm thêm tư liệu ở nhiều điểm khác về địa phương này. May mắn là
trong kho “Thần tích” (mang kí hiệu
AE) của Thư viên Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội, chúng tôi tìm thấý bản thần
tích xã Hạ Lôi có nhan sách “ Nam Việt Trưng Nữ Vương Trắc Nhị nhị vương ngọc
phả cổ lục” 南越徵女王側貳二王玉譜古錄. Nội dung có đoạn
chép:
…時有雄貉將軍亦是貉龍君之苗裔時貉公年方耳順太婆陳氏端歲餘不感夢得月宮一朵杜丹花雙並發之瑞而後有孕時至甲戌年八月初一日是日天地昏黃日中似夜香風馥郁於房中瑞氣生輝於室內當此之間太婆誕生一雙女子…
(xem bản AE. a11/8, tờ 1b).
Phiên âm:
“ Thời hữu Hùng Lạc tướng quân diệc thị Lạc Long Quân chi
miêu duệ. Thời Lạc công niên phương nhĩ thuận, Thái bà Trần Thị Đoan tuế dư bất
cảm, mộng đắc nguyệt cung nhất đóa đỗ đan hoa song tịnh phát, chi thụy, nhi hậu
hữu dựng. Thời chí Giáp tuất niên, bát nguyệt, sơ nhất nhật, thị nhật thiên địa
hôn hoàng, nhật trung tự dạ, hương phong phúc úc ư phòng trung, thụy khí sinh
huy ư thất nội, đương thử chi gian Thái bà đản sinh nhất song nữ tử…”
Nghĩa là: Thời Hùng
Vương, có ông tướng quân họ Lạc thuộc dòng dõi của Lạc Long Quân. Lúc đó ông họ
Lạc tuổi đã 60, bà vợ Trần Thị Đoan đã tuổi ngoài ham muốn, nằm mộng thấy ở
cung trăng có một chùm hoa có hai bông đậu đỏ cùng nở là điềm lành, sau đó Bà
có thai. Đến ngày mồng 1 tháng 8 năm Giáp tuất (14 sau Cn. LKT), ngày hôm ấy,
trời đất mờ ảo, ban ngày mà như đêm tối, theo gió hương thơn bay khắp trong
phòng, khí lành đầy ắp trong nhà, đúng
trong lúc đó, Thái Bà sinh ra hai cô con gái…
Đó là hai chị em bà Trưng Trắc, Trưng Nhị.
Tìm hiểu kĩ thêm, chúng tôi đến Viện TT KH XH Hà Nội, tiếp
cận với kho văn bản là các bản khai làng xã. Làng Hạ Lôi tổng Hạ Lôi phủ Yên
Lãng tỉnh Phúc Yên có bản khai vào tháng Avril năm 1938 mang số hiệu TT-TS
11893 ở trang 187, khoản thứ hai thấy chép: “Hai vua Bà Trưng là Thiềng Hoàng làng chúng tôi. Ngài là bậc tối minh,
tên thường gọi là Hai Bà Trưng, tên húy bà chị gọi là Trưng Trắc, Bà em gọi là
Trưng Nhị. Ngài là bực nhân thần. Thánh phụ là ông Lạc công, Thánh mẫu là bà Trần
Thị Đoan, theo trong ngọc phả, hai bà cùng sinh một ngày, nghĩa là hai bà đẻ
sinh đôi một ngày. Thiềng nên sinh nhật điều ở ngày mồng một tháng tám năm Giáp
Tuất…”.
Ở trang 194 cùng văn bản lại thấy ghi tiếp: “ Khoản thứ năm……Mồng một tháng tám sinh nhật
Hai Vua Bà là đại tiệc của dân thời đồng dân trích tiền công quỹ mua một con
trâu thờ độ 50 $, theo lệ cũ mỗi xóm nuôi một năm, đến ngày tiệc đem ra nộp
dân. Dân tế con trâu ấy chỉ tế ở đền hai Vua Bà”.
Đó là một thông tin.
Trở về huyện Yên Lạc,
trong sách A. 761 ghi đó, theo nhiều nguồn thông tin là miền đất Cấm Khê (tức Kim Khê) nay là miền đầu nguồn sông
Nguyệt Đức (sông Cà Lồ) thuộc 2 xã Nguyệt Đức và xã Văn Tiến huyện Yên Lạc tỉnh
Vĩnh Phúc, căn cứ cuối cùng của Bà Trưng cố thủ chống Mã Viện năm 42 Cn, tức là
địa hạt phân phủ Vĩnh Tường tỉnh Sơn Tây dựng đặt năm Minh Mệnh thứ 13 (1832),
gồm đất 2 huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay. (xem thêm Trần Trọng Kim. “Việt Nam Sử
lược”. Bản in của nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. Hà Nội 2008 trang 50).
Quy đổi ra địa danh ngày nay là thôn Xuân Đài thuộc về xã Nguyệt Đức , xã Quan
Đài nay là hai thôn Cẩm La, Phúc Lộc , xã Tiên Đài là thôn Tiên Đài đều thuộc
xã Văn Tiến đều huyện Yên Lạc. Như vậy trong một khu quần tụ tới 6 di tích thờ
bà Trưng:
- Đền Xuân Đài, ngôi thờ
chung của 3 xã Xuân Đài, Quan Đài , Tiên Đài. Tư liệu hiện còn là 13 châu bản
sắc phong triều Lê và Nguyễn. Duệ hiệu ghi trong lòng sắc văn như dòng thánh âm
bài vị tờ chép là “Vua Bà Cung Hoàng Trưởng Nương công chúa”. (Xem
Lê Kim Thuyên. “Sắc phong Vĩnh Phúc”. Sở
VHTT và DL Vĩnh Phúc xuất bản . 2012 . Trang 849).
- Làng Xuân Đài có 2 khu
nay đặt là khu 6, khu 7, một khu có miêu thờ là Xuân Đài, một khu có đình thờ
là Gia Phúc đều thờ Bà Trưng.
- Đình thôn Cẩm La.
- Đình thôn Phúc Lộc.
Gọi chung là Phúc Cẩm.
- Đình làng Tiên Đài.
Theo hướng này, khi về
điền dã tại địa phương, chúng tôi tìm thấy các văn bản như sau :
1. Bản TRƯNG NỮ VƯƠNG
LƯỠNG VỊ THẦN TÍCH. Ảnh tờ 1a.
徵女王兩位神蹟
Là bản chữ Hán chép tay
của đình làng Phúc Lộc xã Văn Tiến, huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc như sau:
Phiên âm:
Hán Kiến Xương niên
gian, Hán sai Tô Định vi Nam Việt thái thú. Tô Định tính hiếu sát vi
nhân,……….tàn hại dân tình ưu loạn quốc trung, anh hùng hào kiệt thâm dĩ vi hận.
Thời hữu tướng quân Hùng Lạc thị, diệc Lạc Long Quân chi miêu duệ. Lạc công
niên cận lục tuần, thê Trần Thị Đoan niên ngoại tứ tuần, dạ quải mộng đắc nhất
chi đỗ đan lưỡng đóa hoa khai dĩ nhi hữu. Ư Giáp tuất niên, bát nguyệt, sơ nhất
nhật, thiên địa u ám, nhật trung như dạ, hương khí mãn sinh phòng, hào quang
chiếu sản thất, hốt nhiên sinh lưỡng nữ. Diện như ngọc kính, sắc tự ngân bình,
nga mi phượng nhãn chân lãng uyển viên trung nhất mĩ hoa, thế thượng chi tiên
nga dã. Phụ mẫu dưỡng dục tối ái chi. Chí tam tuế…
Dịch nghĩa:
Trong đời Kiến Xương nhà Hán (Sách viết nhâm: Không có niên hiêu Kiến
Xương. Chỉ có niên hiệu Kiến Vũ nhà Đông Hán từ năm 25 – 40 sau Cn),
vua Hán sai Tô Định sang làm quan thái thú ở nước Nam Việt. Tô Định tính thích giết
người…..tàn hại dân tình, làm loạn trong nước, anh hùng hào kiệt vô cùng căm giận.
Lúc đó, có tướng quân triều Hùng họ Lạc, chính là dòng dõi của Lạc Long Quân.
Ông họ Lạc tuổi đã gần 60, bà vợ là Trần Thị Đoan tuổi đã
ngoài 40, nằm mộng thấy giấc mộng lạ được một cành đậu đỏ nở ra được hai bông
hoa. Đến năm Giáp tuất (14 Cn. LKT), ngày mồng 1 tháng 8, trời đất tối tăm, ban
ngày mà tối như đêm. Khí thơm bay khắp trong phòng sinh, ánh sáng chiếu trong
phòng sinh nở, rồi bỗng dưng bà sinh ra
được hai người con gái. Mặt như kính ngọc, sắc tựa bình bạc, mày ngài, mắt phượng
rõ ràng trong vườn ngọc có bông hoa đẹp, chẳng khác nào tiên nga trên đời. Cha
mẹ rất âu yếm nuôi nấng. Đến năm lên 3 tuổi…
Đình làng Cẩm La
cũng có một văn bản như thế này. Có lẽ đều có nguồn từ một văn bản.
Để kiểm tra lại, chúng
tôi tìm đến kho sách THẦN TÍCH - THẦN SẮC (TT-TS) tư liệu của viện Thông tin
KHXH Hà Nội, và tìm thấy bộ lưu trữ các bản khai của các vị lí dịch các làng xã
kể trên theo yêu cầu của Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (EFEO).
Ở làng Cẩm La, thống kê
đề ngày 18-4-1938, có phần
chép bằng chữ Hán: TRƯNG NỮ VƯƠNG LƯỠNG
VỊ SỰ TÍCH.
徵女王兩位事績.
….辰有將軍雄貉氏亦貉龍君之苗裔貉公年近六旬妻陳氏端年外四旬夜卦夢得一枝杜丹兩朵花開已而有娠於甲戌年八月初一日天地幽暗日中如夜香氣滿生房毫光炤產室忽然生兩女面如玉鏡色似銀屏蛾眉鳳眼宛朗花圓中一嫩花世上之仙娥也父母養育最愛之至三歲辰命名姊曰側公主妹曰貳娘公主…
Xem
TT-TS 13510.
(trang 844).Văn bản chép chữ 辰 kiêng húy.
Phiên âm:
…Thời hữu tướng
quân tính Lạc thị, diệc Lạc Long Quân chi miêu duệ. Lạc công niên cận lục tuần,
thê Trần Thị Đoan niên ngoại tứ tuần, dạ quải mộng đắc nhất chi đỗ đan lưỡng
đóa, hoa khai dĩ nhi hữu thần. Ư Giáp tuất niên bát nguyệt , sơ nhất nhật,
thiên địa u ám, nhật trung như dạ, hương
khí mãn sinh phòng, hào quang chiếu sản thất. Hốt nhiên sinh lưỡng nữ, diện như
ngọc kính, sắc tự ngân bình, nga mi phượng nhãn, uyển lãng hoa viên, trung nhất
nộn hoa, thế thượng chi tiên nga dã. Phụ mẫu dưỡng dục tối ái chi. Chí tam tuế
thời mệnh danh tỉ viết Trắc công chúa, muội viết Nhị nương công chuá.
Dịch nghĩa:
Lúc đó có tướng quân
họ Lạc, là dòng dõi của Lạc Long Quân. Ông họ Lạc tuổi đã gần 60, bà vợ là Trần
Thị Đoan tuổi ngoài 40, đêm nằm mộng lạ được một ành đậu đỏ có hai bông nở ra
như có chửa. Năm Giáp tuất (14 Cn. LKT.), ngày mồng 1 tháng 8, trời đất tối
tăm, ban ngày mà như đêm tối, khí thơm khắp phòng sinh, ánh sáng chiếu đầy
phòng đẻ. Bỗng nhiên sinh ra hai người con gái, mặt như kính ngọc, sắc tựa bình
bạc, mày ngài, mắt phượng, như hoa trong vườn, trong có một bông hoa đẹp nhất, thực như tiên nga trên
cõi đời vậy. cha mẹ nuôi nấng rất là yêu quý. Đến năm lên ba tuổi, cô chị đặt
tên là nàng Trắc công chuá, cô em là nàng Nhị công chuá…
Tuy sách có đề danh
là “sự tích” là loại hình văn bản gần với lịch sử hơn là “thần tích” nhiều huyền
thoại, song nội dung thì cũng như bản của đình Phúc Lộc; có lẽ cũng từ một văn
bản gốc mà ra, vì hai làng một thời kì có địa danh chung là “Phúc Cẩm”.
Một văn bản chép
tay chữ Hán trong TT-TS thôn Gia Phúc làng Xuân Đài tổng Vân Đài huyện Yên Lạc
tỉnh Vĩnh Yên như sau:
南越徵大王兩位玉譜籙
...時有雄貉將軍亦是貉龍君之苗裔時貉公年將耳順太婆陳氏端歲餘不感夢得一朵杜丹雙花並發之瑞而後有孕時甲戌年八月初一日是日天地昏黃日中似夜香風馥郁於生房瑞氣光輝於產室當此之間太婆陳氏端產得一雙女子面如玉鏡非塵色似銀屏弄月蛾眉鳳眼粉臉紅唇果是蓬瀛朗宛之花嬌非是世常之有…
Lưu trữ viện TT KH
XH Hà Nội. Số 13506. trang 797-796.
Phiên
âm:
…Thời hữu Hùng Lạc
tướng quân diệc thị Hùng Lạc tướng quân chi miêu duệ. Thời Lạc công niên tương
nhĩ thuận, thái bà Trần Thị Đoan tuế dư bất cảm, mộng đắc nhất đóa đỗ đan song
hoa tịnh phát chi thụy, nhi hậu hữu dựng. Thời Giáp tuất niên, bát nguyệt, sơ
nhất nhật, thị nhật thiên địa hôn hoàng, nhật trung tự dạ, hương phong phúc
úc ư sinh phòng, hương khí quang huy ư sản
thất. Đương thị chi gian thái bà Trần Thị Đoan sinh đắc nhất lưỡng nữ tử, diện
như ngọc kính phi trần, sắc tự ngân bình lộng nguyệt. Nga mi phượng nhãn phấn
kiểm hồng thần, quả thị bồng doanh lãng uyển chi hoa kiều, phi thị thế thượng
chi hữu…
Dịch
nghĩa:
Lúc đó có ông tướng quân triều Hùng họ
Lạc dòng dõi của Lạc Long Quân. Ông họ Lạc tuổi đương 60, thái bà Trần Thị Đoan
tuổi ngoài ham muốn, nằm mộng thấy mọc lên một cây đậu đỏ có hai hoa cùng nở
cho là điềm lành, sau đó có thai. Lúc đó là năm Giáp tuất (14 Cn), ngày mòng 1
tháng 8, ngày hôm ấy giời đất mờ aỏ ban ngày mà tối như đêm, hương thơm tỏa khắp
nơi phòng sinh, khí thơm sáng đầy nơi phòng đẻ. Đúng lúc đó thái bà Trần Thị
Đoan sinh một lần được hai con gái, mặt như
kính ngọc trên đời, đẹp như bình bạc dưới trăng. Mày ngài, mắt phượng,
má phấn, môi hồng, y như hoa mềm mỏng dễ thương trong vườn nơi tiên cảnh, trên
đời chưa hề có được…
Còn dưới đây là lời khai của lí dịch địa phương các xã kể
trên viết băng chữ Quốc ngữ:
-
“Làng Xuân Đài, xã Xuân Đài thuộc tổng
Vân Đài huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Yên”.
“
Hiện thờ hai vua bà là Trưng Trác, Trưng
Nhị”.
“ Thờ ngài ở miếu, gọi là miếu Vua
bà cuả 3 xã” (Xuân Đài, Quan Đài, Tiên Đài).( TT-TS Số 13506 trang 712).
*
Kê khai TT-TS thôn Gia Phúc xã Xuân Đài tổng Vân Đài huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh
Yên như sau:
“Hai vị
thành hoàng tên hiệu là Trưng nữ vương tên là Trưng Trắc, Trưng Nhị”.
“
Sự tích ba ngài xưa vẫn có sách để lại.
Ngày sinh ngày mồng một tháng tám. Ngày hóa ngày mồng tám tháng ba. Ngày lên
làm vua ngày mồng bẩy tháng riêng. Ngài có công đánh giặc Tầu là Tô Định….”
Lưu
trữ Viện TT KH XH Hà Nôi. TT-TS 13506.
trang 777.
Thôn Gia Phúc cùng với thôn Xuân Đài nay đều thuộc xã Nguyệt
Đức, chính là nơi có tọa lạc ngôi đền Xuân Đài. ngôi đền mà trong lời khai về
xã Xuân Đài là: “Làng Xuân
Đài, xã Xuân Đài thuộc tổng Vân Đài huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Yên”. Trong năm
có các ngày tiệc lệ có cúng tế là:
-
Ngày mùng 7 tháng giêng là ngày tiệc “tức vị” (ngày vua lên ngôi).
-
Ngày mùng 8 tháng 3 là ngày “Thánh hóa”. (ngày
mất)
-
Ngày mùng 1 tháng 8 là tiệc sinh nhật. (tiệc
ngày sinh)
Xem Sđd trang 779.
* Bản
kê khai làng Cẩm La đề ngày 18-4-1938 cho hay:
“ Chúng tôi là kì lão chức dịch thôn Cẩm La xã
Vân Đài, tổng Vân Đài huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Yên lập biên bản khai thần tích
và dân tục như sau này xin đệ trình bản huyên quan xét…”
“Thành hoàng hai vị Trưng Nữ vương. Trưng Trắc
nữ vương và Trưng Nhị nữ vương”.
Ngài là nhân thần.
“Ngài sinh ngày mồng 1 tháng 8, hóa ngày mồng
8 tháng 3.Ngày mồng 7 tháng giêng là ngày yến hưởng khao quân để đi đánh ông Tô
Định..”(trang 835)
“Chúng tôi thờ ngài ở đình” (trang 386)
Về sự thờ cúng thì
trong năm có 3 ngày tiệc về sự thần là:
- Ngày mùng 7 tháng giêng là ngày khao quân.
- Ngày mùng 1 tháng 8 là ngày sinh nhật
- Ngày mùng 8 tháng 3 là ngày hóa nhật.
Sđd trang 837.
Đó là những gì mà trong quá trình điền dã ở 2
xã Nguyệt Đức và Văn Tiến huyện Yên Lạc nơi có địa danh Cấm Khê (Kim Khê) theo
sử “Cương mục” mà chúng tôi thu lượm được.
2. Tại các di tích,
còn nguyên các bài vị thờ, hoành phi câu đối , sắc phong về Hai Bà Trưng (Xem
trong “Hai Bà Trưng và các tướng của Hai Bà trên đất Vĩnh Phúc. Di tích-sự
tích” (Sở VH TT-TT Vĩnh phúc xuất bản năm
2003. Trang 41). “Sắc phong Vĩnh Phúc” (Sở
VH TT và DL Vĩnh Phúc xuất bản năm 2012. Các trang 849. 915). “Câu đối ở
các di tích Vĩnh Phúc”. (Sở VH TT và DL
Vĩnh Phúc xuất bản năm 2013 . Trang 303).
Qua các nguồn thông
tin kể trên cả về chính sử đến dã sử, chúng tôi thu lượm được nhiều thông tin để
xác minh có độ tin cậy:
- Trong các sách sử kí chỉ thấy chép bà Trưng
là người huyện Mê Linh. Hiện có xã Mê Linh huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc, nay
thuộc về thành phố Hà Nội mở rộng. Có đền thờ bà ở quê sinh là làng Hạ Lôi. Di
tích xếp hạng cấp quốc gia đặc biệt.
- Sử điền dã cho thấy
Bà Trưng có họ cha là họ Lạc. “Lạc công” (ông họ Lạc), là một vị tướng quân của
Hùng Vương. Bà mẹ họ Trần tên họ đầy đủ là Trần Thị Đoan. Chỉ đến khi xưng
vương với đề danh là Trưng Trắc, Trưng Nhị. Sử sách chép là “Trưng thị”mà thành
họ Trưng. Bà sinh ra ngày mùng 1 tháng 8
năm Giáp tuất (năm 14 sau Cn). Bà Trắc là chị, Bà Nhị là em, hai chị em sinh
đôi.
Như vậy năm Hai Bà
khởi nghĩa là năm Canh tí (năm 40 sau Cn), lúc đó hai bà ở độ tuổi 26 – 27.
Sau khi mất, Hai Bà
được nhân dân nơi căn cứ kháng chiến cuối cùng lập đền thờ, thành một quần thể
di tích, cùng suy tôn Hai Bà là Thành hoàng.
Không chỉ phải
trong sử sách mà trong tâm thức các bà không những chỉ là nhân vật của lịch sử
mà đã trở thành tâm linh thờ cúng của thần thánh, đi vào phong tục tập quán
trong nếp sống làng xã, hòa đồng trong sinh hoạt văn hóa lễ hội.
Như vậy là từ nguồn
thông tin ở miền này đã minh chứng đầy đủ theo cách chép Hai Bà đứng vào bậc “phu nhân” là bậc của các vua
chúa. (vợ vua các chư hầu gọi là “phu
nhân”, hoặc là phẩm trật nhà vua phong cho vợ
các quan nhất phẩm, tức là hàng mệnh phụ) .
Về nhân thân, Hai
Bà có rõ ràng quê hương sinh quán, có cha, mẹ, có ngày tháng, năm, sinh. Có
ngày mất (tử trận, hi sinh vì nước).
Hiện diện là vị “nhân thần”, là anh hùng dân tộc.
Chỉ tiếc rằng chưa
bao giờ có tổ chức ngày sinh của Hai Bà theo như quốc lễ với các vị anh hùng
dân tộc khác trong lịch sử.
Tháng 8 năm Giáp ngọ
(2014), thành phố Hà Nội dự kiến tổ chức kỉ niệm ngày sinh của Hai Bà, nhưng vì
chưa có nguồn tài liệu có độ tin cậy để minh chứng. Nhân đây tôi công bố những
tư liệu sưu tầm điền dã của tôi, đó cũng là thông tin địa phương ở tỉnh Vĩnh
Phúc cũ đóng góp vào kho sử liệu về Hai Bà Trưng đang còn rất ít ỏi hiếm hoi của
giới Sử học nước nhà.
Sơn Đông. Tháng 9
năm 2014.
Địa chỉ làng xã:
- Thôn Quan Tử xã
Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đ T:
02113828069. Di động
0984550547.