NÚI SÔNG TỈNH VĨNH PHÚC.
Đôi điều về góc nhìn Địa văn
hoá.
…………………………..
LÊ
KIM THUYÊN.
Tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay, có 09 đơn vị
hành chính cấp huyện bao gồm thành phố Vĩnh Yên thủ phủ, thị xã Phúc Yên, các
huyện Bình Xuyên, Lập Thạch, Sông Lô, Tam Dương, Tam Đảo, Vĩnh Tường và Yên Lạc.
Xét về nguồn gốc, đất đai tỉnh Vĩnh Phúc
hầu hết là đất đai thuộc về phủ Tam Đái thừa tuyên Sơn Tây lập năm 1469 đời vua
Lê Thánh Tông gồm các huyện Yên Lạc, huyện Lập thạch và huyện Vĩnh Tường. Cùng
với huyện Bình Xuyên tách sang từ phủ Phú Bình tỉnh Thái Nguyên năm 1890; Huyện
Tam Dương phủ Đoan Hùng cắt sang phủ Vĩnh Tường năm 1831 và một góc huyện Kim
Anh nhập vào từ phủ Bắc Hà tỉnh Bắc Ninh năm 1901.
Đó là một góc của xứ Đoài xưa.
“ Xứ Đoài” là tên gọi về Sơn Tây thừa
tuyên, tên Sơn Tây có từ đó. (1469).- (đổi thành “xứ” năm 1490. “trấn” năm 1514
và “tỉnh” năm 1831),là một trong “ tứ trấn” trọng yếu bao bọc lấy kinh thầnh Đông
Đô – Hà Nội làm trung tâm.
-
Xứ Bắc, nay là hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. ( Hà Bắc)
- Xứ Nam, nay là các tỉnh Hà Đông thuộc
Hà Nội mở rộng, trước kia gọi là Sơn Nam Thượng; Hà Nam, Hưng Yên, Nam Định Thái
Bình, gọi là Sơn Nam Hạ.
- Xứ Đông, nay gọi là Hải Dương và Hải
Phòng. Sự diên cách thay đổi mỗi đời đại loại là như vậy.
- Xứ Đoài, tức là Sơn Tây, nay là 03 tỉnh
Vĩnh Phúc, Phú Thọ cùng tỉnh Sơn Tây cũ, sau sáp nhập với tỉnh Hà Đông thành tỉnh
Hà Tây, nay đều thuộc Hà Nội mở rộng.
Nếu lấy ngã ba sông Bạch Hạc làm trung
gian thì:
Góc tây – tây bắc là tỉnh Phú Thọ.
Góc nam – tây nam là tỉnh Sơn Tây cũ.
Và tỉnh Vĩnh Phúc là miền đất về phía đông
– đông bắc của xứ Đoài, góc cận kề “thanh giáo” với kinh thành Thăng Long văn
hiến xưa.
Tuy nhiên, do là vùng trung du trước núi
nên địa hình sinh thái (thời chưa có kênh đập thuỷ lợi ) xưa vãn chỉ là đa phần
có cuộc sông thực:
Chẳng
đâu như tỉnh xứ Đoài
Ăn
cơm là ít, ăn khoai là nhiều.
Đời Hán, ( 206 – 220 ) miền đất tỉnh Vĩnh
Phúc da phần là đất của hai huyện Mê Linh và Chu Diên. Đời Tuỳ Đường ( 581 – 907) là châu Phong, huyện Bạch Hạc,Vĩnh
Tường ngaỳ nay là đất trung tâm của Châu Phong ấy.
“Kể
từ Hùng Lạc bấy lâu
Tả
hà vẫn đất Phong Châu còn truyền.”
( Bài ca phong cảnh
xã Thượng Trưng – Vĩnh Tường. )
Hay như:
“18
đời công đức giời Nam,
trải Đinh, Lê, Lí, Trần, Lê cho đến bản triều, hương khói ngạt ngào đền Cổ
Tích.
Bốn ngàn năm non Rồng nước cũ, kìa giữa Lô, Đà, Thao, Đảo,
quay về Bạch Hạc, khí thiêng phảng phất cuối châu Phong.”
( Câu đối đền Hùng
Vương – Phú Thọ).
Đền Cổ Tích tức là đền Thượng núi Nghĩa
Lĩnh xã Hi Cương.
*
Tỉnh Vĩnh Phúc, xét về cấu tạo địa chất, có 03
vùng địa hình:
-
* Địa
hình núi: Dãy Tam Đảo xuyên suốt phía bắc và đông bắc huyên Lập Thạch, Tam Đảo,
Bình Xuyên thị xã Phúc Yên.
*
Vùng trung du và đồng bằng trước núi (đồng băng nhỏ dọc theo núí đồi), vốn là
thềm của núi Tam Đảo, cũng xuyên suốt 04 huyên kể trên.
Lênh
đênh quán sót, đường ngang,
Trở
về gò Điệu, lại sang gò Đường.
(Ca dao xã Đạo Đức
huyện Bình Xuyên )
hoặc như:
Đồn
rằng kẻ Gốm thâm vai,
Cao Phong leo dốc l…dài tám gang.
( Ca dao vùng nam Lập
Thạch )
Thâm vai vì gánh chợ hàng sáo.
Vùng đồng bằng châu thổ, diiển hình là
hai huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc và nam phần huyện Bình Xuyên.
* Địa hình núi.
Núi Tam Đảo là chủ sơn của tỉnh Vĩnh
Phúc, là tính vượt trội trong diện mạo cảnh quan có 55 km độ dài từ địa đầu huyện
Lập Thạch đến thị xã Phúc Yên thộc sơn phận tỉnh Vĩnh Phúc. Đó là con đường biên tự nhiên ngăn cách với
hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên.
Thuộc về địa phận xã Đại Đình huyện
Tam Đảo, có 03 ngọn chót vót
nổi
lên. “Sách Địa chí tỉnh Sơn Tây” chép: “ Trung vi Thạch Bàn, tả vi
Thiên
thị, Hữu vi Phù Nghì, cố danh Tam Đảo”. ( Ngọn ở giữa là Thạch Bàn ngọn bên trái
là Thiên Thị, bên phải là Phù Nghì. Nhân thế mà có tên Tam Đảo)
Ngày nay đo dược độ cao:
-
Thạch Bàn : 1420 m ( giữa )
-
Thiên Thị : 1585m ( bên trái )
- Phù Nghì : 1250 m ( bên phải ).
(Đinh Xuân Vịnh. “Sổ
tay địa danh Việt Nam”.)
Tam Đảo thuộc hệ núi trẻ, cao trung bình,
độ tuổi tiền Cambri, khoảng 500 – 570 triệu năm về trước. ( “Phân vùng kiến tạo
miền Bắc Việt Nam”.
Tài liệu của A. E. Dovjileov-Liên Xô) thuộc đới sông Lô, là một mặt phẳng có độ
chia cắt sâu, uốn nếp dài theo hình chẽ ngón tay dài ra đến vịnh biển Hạ Long.
Từ
thế kỉ XIX, danh sĩ Cao Bá Quát, đã
nhận biết điều đó:
“Địa
khống tam biên hoành nhất đái
Sơn
liên thất huyện nhất tiên bàn”.
( Cao Chu Thần thi
tập)
(Đất chắn ba bề ngang một
dải
Núi liền bảy huyện nhấp nhô
bàn”.
Còn sách “ Nhĩ hoàng di ái lục” lại miêu
tả “…liên sơn luỹ chướng,
uyển
diên bàn bạc lâm vu” (núi liền lớp lớp,
rõ ràng dài rộng biết bao nhiêu). Các suối chảy từ vách núi dựng đứng rót
xuống tao nên cảnh quan đẹp, như ở độ cao 1000m, ngon Thạch Bàn có thác nước với
góc dựng đứng 80 độ cao trên đền lên đền Tây Thiên, bên khu nghỉ mát thị trấn
Tam Đảo có suối Thác Bạc nổi tiêng.
Tam Đảo cũng là miền nền bán bình nguyên,
càng về phia đông càng lộ rõ, nên đã hình thành ở khu Máng Chì một thị trấn nghỉ
mát Tam Đảo núi nổi tiếng ở xứ Bắc Kì lập năm 1904 và nay có cột tháp thu hình
và khuếch đại thuộc hệ thống vô tuyến truyền hình Việt Nam ở độ cao 1250m, cao
95m nặng tới200 tấn.
Kể từ thời xa xưa, Tam Đảo là dãy núi đã
dược gọi là miền “danh sơn” của Bắc Bộ, thần núi được chép vào tự diển thờ cúng,
thuộc về “hạo khí anh linh” của đất Việt. Mở đầulà dãy núi có vị thế rất quan yếu
từ thời lập nước. Các bản ngọc phả Hùng Vương đều đã chép: Mạch núi từ bên trái núi Lôi Hà, theo mạch về đến các huyện Đong Lan,Sơn
Dương, Đương Đạo, Tam Dương, chót vót nổi lên ba ngọn làm cung tiên con rồng
bên trái, thông
đến xứ Kinh Bắc, Hải Dương, Đông Triều,
núi Yên Tử, đến tận tám xã ở
giữa biển Đồ Sơn làm đầu
rồng chầu về. Bên phải, từ sông Hán, sông Nhĩ Hà, sông Lô, sông Thao theo mạch
mà chạy đến mười châu ở Tuyên Quang, Hưng Hoá, Nguyên Thanh, sông Bạn, sông Đà đến
huyện Bất Bạt chót vót nổi lên ngọn Tản Viên làm cung tiên bên phải ( bạch hổ
). Đến Sơn Nam, Ái Châu, cửa biển Thần Phù lấy đảo Trà Sơn, Trà
Lí ngoài biển làm đầu hổ chầu về. Sông Bạch Hạc làm “nội minh đường”, sông lớn
ở Nam Xương( Lí Nhân Hà Nam) làm “ trung minh đường”, Nam Hải, Tượng Sơn làm
“ngoại minh đường”; Nghìn núi cùng ngoảnh lại, van dòng đều chảy theo dòng nước
chính, tất cả đều đổ về núi Nghĩa Lĩnh là núi Tổ, vẽ lên hình thế :
Tây hưởng vu thiên: Tản, Đảo, Thao, Lô
hợp tác nhất thiên vũ trụ.
Nam tổ kì quốc : Đinh, Lê,Trần, Lí
trường lưu ức tải dư đồ.
Nghĩa là:
Trời
đất miền Tây: Tản, Đảo, Thao, Lô cùng họp một trời vũ trụ
Nước
tổ phương Nam: Đinh, Lê, Trần, Lí dài lâu muôn dặm dư đồ.
Tam Đảo - Tản Viên ( chính xác là Ba Vì),
hai ngọn đối nhau, hai đầu biên của “bộ chủ” Văn Lang, một trong 15 bộ của nước
Văn Lang, có kinh đô Văn Lang, đời sau gọi là thành Phong Châu, thành Gia Ninh đều
ở thôn Việt Trì, xã Bạch Hạc, huyện Bạch Hac, phủ Tam Đái thuộc Sơn Tây thừa tuyên
đời Hồng Đức (1469).
Sách “An Nam chí nguyên” chép về núi
Tam Đảo: “…hữu tam phong đột khởi, kì cao tế thiên, dữ Tản Viên Sơn giác vọng tương
lập, Giao chỉ chi danh sơn dã”. ( Ba ngọn
nổi lên chót vót, cao đến tận trời. Cùng với núi Tản Viên, hai bên đối nhau, đều
là danh sơn của Giao Chỉ).
Tuy nhiên, giữa hai ngôi danh sơn này
cũng có những dị biệt,
1.
Đối
với dãy Tam Đảo.
Ngôn từ của các sách địa chí là “tam
phong tủng bạt” nghĩa là ba ngọn chót vót cao tuột lên, rồi lại “ uyển diên bàn
bạc lâm vu” ( rõ ràng dài rộng biết bao nhiêu). “Kiến văn tiểu lục” của tác giả
Lê Quý Đôn ghi chép tỉ mỉ hơn “ ba ngọn
cao vót đến tầng mây…phía sau núi vách đá dựng đứng, đỉnh núi thì đất đá lẫn
lộn, cây cối rậm rạp xanh tươi…sườn núi có chùa cổ Tây Thiên, trúc xanh thông
biếc, cảnh sắc thanh nhã rộng rãi…”.
Lại nữa : “Sơn thượng chi Vân Tiêu am,
Song Tuyền am, Lưỡng Phong am, Bộ Vân thê, Đái Tử kiều chi loại, giai kì tuyệt. Nam Giao danh thắng chi
địa, loại thử thượng đa”.
( An Nam chí nguyên – sách đã dẫn)
(
Trên núi có am Vân Tiêu, am Song tuyền, am Lưỡng Phong, thang
Bộ Vân, cầu Đái Tử, cảnh đẹp
phương Nam
có đâu hơn thế ).
Như vậy là Tam Đảo có cảnh, có tình, có
vật, có linh.
-
Có cầu Đái Tử là cầu ôm con.
-
Có thang Bộ Vân là cầu bước trên mây.
Các chữ Vân Tiêu nghĩ là “trên mây”, Song
Tuyền là “ hai ngọn suối cùng chảy song song nhau”, Lưỡng Phong là “ hai chỏm núi”-
cảnh trí được mô tả, được tư duy đến như thế là cung, tạo nên một cảnh sắc riêng
của Tam Đảo. Công việc là làm sao tái hiện bằng ngôn ngữ sắc mầu của hội hoạ, của
âm nhạc. của thi ca là việc làm của các văn nghệ sĩ.
2.
Đối
với núi Ba Vì ( Tản Viên )
Cũng các sách địa chí chép; “ Tam phong tủng
tú, hình như trương tản , cố danh”. Nghĩa là : Ba ngọn cao đẹp, mở ra như cái tán,
nhân thế mà thành tên. Hoặc là: “ Ba ngọn cao vót, hình tròn như cái tán, cảnh
sắc xanh tươi, hình thế cao cả, như trấn giữ đất nước, ngọn giữa rất cao…bốn mặt
có sông bao bọc, cây cối um tùm, hình thế sáng đẹp”
“Đại Nam nhất thống
chí”
Rõ ràng
về cấu trúc hình thể và cảnh sắc, hai núi hoần toàn khác nhau. Sự khác
nhau ấy, kể cả đến môi trường sinh thái, đến cái không gian văn hoá xứ Đoài.
“Tôi
nhớ xứ Đoài mây trắng lắm”
(Baì
thơ “ Tây tiến” của Quang Dũng. Dẫn theo cố Giáo Sư Trần)
Mây Tam Đảo- mây Ba Vì- mây của xứ Đoài
trong không gian tâm linh Việt, trường tồn với non sông nức Việt. “ Nước cũ bởi
vì đâu, giang sơn xây dựng quên nao, nào Hán,Tống, nào Nguyên ,Minh, công cuộc
tang thương, đất Việt vững bền ơn Thánh Tổ ; Khí thiêng còn lại đó, lăng miếu
ngạt ngào hương khói, này Thao, Lô, Tản, Đảo bức tranh sơn thuỷ, Châu Phong in đậm
dấu Thần Tiên.” (Câu đối đền Hùng Vương).
* Địa hình sông:
Nếu
nói Tam Đảo tạo nên miền núi và trung du sinh thái “ làng đồi” của tỉnh Vĩnh Phúc,
mà thành phố Vĩnh Yên hiện tại là bậc thềm đồi cuối,
Cùng
huyện Tam Dương cũng là một bản sắc “ làng đồi” ( lị sở tỉnh Vĩnh Yên năm 1899 ở
trên núi Yên Sơn – nay là cơ quan tỉnh Đảng bộ Vĩnh Phúc) :
“ Huyện Tam Dương có ba con dê, đứng núi
đá trông về Lập Thạch”
(
một vế ra đối chưa dược đối )
thì
tỉnh Vĩnh Phúc còn một nửa là sông.. Hay nói đúng hơn là nửa phần đất, nửa phần
nước cách nay 6000năm, về sau tạo thành vùng “ tiểu châu thổ”
Vĩnh
Tường, Yên Lạc, Yên Lãng cũ trong cái “đại châu thổ” đồng bằng Bắc Bộ của hệ thống
sông Hồng ( Lô – Đà – Thao ) và sông Thái Bình ( Cầu – Thương - Lục Nam ),
trong đó có hai sông Thiên Đức và Nguyệt Đức là những mạch nối.
Đỉnh của tam giác châu “ tiểu đồng bằng”
và “đại đồng bằng” đó, đều là Việt Trì - Bạch Hạc.
Bạch Hạc xã - Bạch Hạc huyện từ năm
1945 là huyện Vĩnh Tường đã được chép vào sách “ Lĩnh Nam chích quái” ở thế kỉ
XV:
“Ở
đất Phong Châu đời thượng cổ có một cây lớn, gọi là chiên đàn cao hơn “ nhận” (đơn vị đo lường đời
cổ) cành lá rập rạp, có chim hạc làm tổ ở trên, cho nên gọi đất ấy là Bạch Hạc
(chim hạc trắng), cây đó sống đã lâu, không biết mấy nghìn năm”.
Sử “Toàn thư” xác nhận, năm 1469 vua Lê
Thánh Tông chính thức lấy địa danh làng Bạch Hạc ( nơi có cây chiên đàn) đặt thành
địa danh cấp huyện thuộc phủ Tam Đái xứ Đoài ( Sơn Tây ). Đó là miền “ khí thiêng
sông núi”, “hạo khí anh linh” nơi đất tổ vua Hùng. Hình tượng con chim lạc –con
cò – ( có người bảo là “ lạc”) trên các trống đồng Ngọc Lũ, là hình tượng của
loài chi nửa đất, nửa nước hẳn có nguồn gốc từ đây.
Hãy bắt đầu đi tìm các con sông của Vĩnh
Phúc.
1.Sông
Bạch Hạc.
Đoạn sông Hồng bắt đầu từ ngã ba Việt Trì
- Bạch Hạc đén địa đầu thủ đô Hà Nội cũ, ôm lấy tỉnh Vĩnh Phúc về phía tây
nam.Con sông nổi tiếng về lưu lượng phù sa, là con sông chủ lực tạo nên đồng bằng
châu thổ Bắc Bộ, thường gọi là châu thổ sông Hồng. Đoạn sông ấy có tên chép
trong các sách địư chí cổ là “ sông Bạch Hạc”. “Bạch hạc giang, hoặc xưng Tam Kì
giang, hoặc xưng Tam Giang, tại Bạch Hạc, Bạch Hạc xã. Nãi Thao Lô hợp lưu, chí
Hà Nội tỉnh vi Nhĩ Hà”.(Xem “ Sơn Tây tỉnh chí”)
( sông
Bạch Hạc, còn gọi là sông Tam Kì, hoặc gọi là Tam Giang, ở xã Bạch Hạc, huyện
Bạch Hạc, là chỗ hợp dòng của sông Thao, sông Lô, đến tỉnh Hà Nội gọi là sông
Nhĩ Hà).
Sách “Đại Nam nhất thống chí” chép: Sông Bạch Hạc, từ ngã ba Bạch Hạc đến Hà Nội
làm sông Nhị. Có tên nữa là Tam Giang, thời thuộc Minh đặt phủ Tam Giang, tên
thành Tam Giang là gốc từ đấy.
(Xem mục
Sơn Xuyên - tỉnh Sơn Tây)
Việt
sử thông giám cương mục thì cho rằng:
Sông
Bạch Hạc ở địa phận huyện Bạch Hạc tỉnh Sơn Tây. Sông này phía trên giáp với
sông Thao, sông Đà, phía dưới thông với sông Phú Lương.
(chính
biên, quyển VII)
Xưa
hơn, là sách An Nam chí nguyên ở thế kỉ XV chép:
“ Bạch Hạc giang, tại Tam Đái Châu - Thượng
hữu Thao giang, Đà giang, Tuyên giang, tam thuỷ hợp lưu vu thử. Hạ thông Lô
giang”.
(mục Sơn
Xuyên)
(
Sông Bạch Hạc, ở châu Tam Đái. Trên có
sông Thao, sông Đà, sông Tuyên, ba dòng hợp lưu ở đấy. Dưới thông với sông Lô).
Hãy xem sách “Nhĩ hoàng di ái lục”. Giải
thích về sông Nhĩ Hà: “ nhất danh Lô giang, nhất danh Phú Lương giang, tại Đại
La thành chi tả…”.
(
Có một tên là sông Lô, một tên là sông Phú Lương, ở về bên trái thành Đại La).
Thành Đại La nay thuộc vào thành phố Hà Nội.
Như vậy, con sông Lô thời thuộc Minh (1406-1427) về trước là sông Nhĩ Hà, nơi mà
Nguyễn Thuyên ở đời Trần đọc bài “tế Lô giang ngạc ngư văn” (văn tế cá sấu ở sông
Lô) là ở bên trái thành Thăng Long -bờ sông hồng hiện nay. Còn sông Lô thời
nay, thời ấy gọi là sông Tuyên, chỉ đoạn sông từ thị xã Tuyên Quang về đến ngã
ba Phú Hậu xã Sơn Đông ( phía trên cầu Việt Trì).
Vậy là, sông Bạch Hạc, con sông chính của
tỉnh Vĩnh Phúc – con sông được liệt vào hàng “đại xuyên” (sông lớn), thần sông được
liệt vào tự điển thờ cúng, chép vào sử sách. Cũng như sông Thao, tức sông Hồng đoạn
chảy từ Yên Bái đến ngã ba Việt Trì là sông chính của tỉnh Phú Thọ.
Vua Lê Thánh Tông (1460-1497) từng có cảm
nhận khi qua lên miền tây – Tôi muốn giới thiệu bài BẠCH HẠC GIANG TRUNG:
Chỉ cái can trường sinh thiết thạch
Khởi tương đầu giác oán hi nga
Thử hành trần thế quan tâm thiểu
Duy hữu đông lưu cảm khái đa.
Dịch:
Trên
sông Bạch Hạc
Chỉ
quý lòng son như sắt đá
Há
vì tài mọn oán trời cao
Chuyến
này việc thế quan tâm ít
Cuồn
cuồn dòng sông cảm khái nhiều.
(Lời dịch của Mai Xuân Hải- Viện nghiên cứu Hán Nôm- Hà Nội)
Dòng sông cuồn cuộn chảy bồi thổ nên đồng
bằng tỉnh Vĩnh Phúc bên tả ngạn, tạo nên một nửa phần tỉnh Vĩnh Phúc về đất đai,
tạo nên nguồn nội lực - sức mạnh nội sinh cho toàn tỉnh. Hơn thế, còn tạo nên tích
cách người Vĩnh Phúc, diện mạo văn hoá cộng đồng lòng đồng bằng Vĩnh Phúc.
Chẳng
chua cũng kể là chanh
Chảng
ngon cũng thể cam sành chín cây
Muốn
cho có đó có đây
Sơn
lâm chưa dễ một cây nên rừng.
( Ca
dao cổ xứ Đoài)
2.Sông
Cà Lồ (Nguyệt Đức)
Địa danh thường chép trong thư tịch. Người
Vĩnh Phúc quen gọi là sông Cà Lồ, một tên Nôm trăm phần, chưa rõ nguồn gốc. Đó
là phân lưu của sông Bạch Hạc có cửa phát nguyên từ xã Trung Hà huyện Yên Lạc,
chảy qua các huyện Yên Lạc, Yên Lãng đến tỉnh Bắc Ninh thì đổ vào sông Lục Đầu.
( Sơn Tây tỉnh
chí)
Ở thời chưa có đê, thì nước sông Nguyệt Đức
thường năm vẫn tải phù sa trải đều cho đồng ruộng châu thổ của Vĩnh Phúc, tăng
bổ cho sự trù phú vốn có của miền này, từng được ghi nhận vào hồn thiêng sông núi
quê hương:
“Tước lĩnh dục anh linh, thông minh nhi
nhất.
Đức
giang lưu khải trạch, cao hậu vi tam”.
(Câu đối đền Hạ làng Can Bi, huyện Bình Xuyên, thờ vị nữ tướng thời Hai
Bà Trưng)
Sông Nguyệt Đứccoa một chi lưu là sông Sơn
Tang mà sách Đại Nam nhất thống chí chép là: “Khe huyện Yên Lạc”: ở cách huyện
lị 25 dặm về phía tây bắcphát nguyên từ địa phận xã Long Trì, thuộc tổng Đạo Tú
huyện Tam Dương, chảy quanh co về phía Nam, qua xã Tây Quan đến địa phận huyện
Bạch Hạc lại chảy bẻ sang phía đông, vòng quanh huyện hạt 74 dặm, đến địa phận
xã Thịnh Kỉ huyện Yên Lãng rồi đổ vào sông Nguyệt Đức. Cũng còn gọi là sông
Phan.
Huyện lị Yên Lạc đời Nguyễn nay gọi là thị
trấn huyện, ở xã Minh Tân, thủ phủ của huyện.
Lại xét, Địa chí huyện Kim Anh (“ Kim Anh
huyện dư địa chí”) thì sông Nguyệt Đức mang địa danh Bình Lỗ, nơi mà Lê Hoàn đắp
thành Bình Lỗ chống quân xâm lược Tống năm 981. Là đoạn sông chảy qua huyện Yên
Lạc cũ đến huyện Kim Anh, từ xã Đa Phú đến xã Lương Phú, xã Yên Phong, xã Phương
La, cùng với sông Nguyệt Đức ( người Phúc Yên cũ hay địa danh Cà Lồ) hợp với sông
Cầu ở ngã ba Sa.
Sông này, đã được đào vét từ đời Lí
(1010-1225), đến năm Thái Hoà thứ 7 (1449), vua Nhân Tông nhà Lê cho đào vét thêm
một đoạn. Sử toàn thư chép: “Sai tư khấu Lê khắc phục đem người các cụ
Bách Tác, quân vệ Thiên Quan, Tứ Sương và quân dân trấn Thái Nguyên (cũ) đào
lại sông Bình Lỗ, từ Lãnh Canh đến Phù Lỗ (nay thuộc về Hà Nội-LKT) dài 2500 trượng
(khoảng 10km. LKT) thông với sông Bình Than (tức sông lục Đầu ở bến Bình Than-LKT)
để tiện việc đi lại với trấn Thái Nguyên”.
(Bản Kỉ - quyển XVI)
3.Sông
Loan (Loan giang)
Chữ “Loan” có nghĩa là nước chảy vòng, là
vụng sông.
Con sông này còn dấu tích ở thôn Đông xã
Minh Tân huyện Yên Lạc, trước núi Biện (Biện sơn), nay đặt chùa Biện (Biên sơn
tự).
Đền Gia Loan (Gia loan từ )là bến đò sông
Loan xưa, thời xứ quân Nguyễn Khắc Khoan.
Con sông đã tắt dòng, nhưng vẫn còn trong
từ chương, còn với văn hoá:
Tú dục Loan giang khai đạo mạch
Anh chung Biện lĩnh xuất Nho khoa
( câu đối từ đường họ Dương – thôn Đông)
(Đẹp
đẽ dòng Loan, khơi mạch đạo
Thiêng
liêng núi Biện, phát khoa Nho)
Hoặc:
Loan thuỷ lưu phương ngư hiến ngọc
Biện sơn dẫn mạch địa chung linh
( câu đối đền Gia Loan)
(Thơm
nức dòng Loan, cá dâng ngọc
Mạch
về núi Biện, đất ngời thiêng)
Sông Loan, núi Biện cùng với một thời chứng
tích về sứ quân Nguyễn Khắc Khoan, tạo nên cảnh quan một vùng đựpc gọi là Nguyễn
Gia Loan:
“Nhất danh Độc nhĩ sơn, nhất danh Biện sơn,
tại An Lạc huyện: Vĩnh Mỗ xã địa phận. Bình địa đột khởi thổ đồi, hình như phục
tượng. Hạ lâm thâm trạch, Nguyễn sứ quân cứ Tam Đái, đô vu thử, nhân danh Nguyễn
Gia Loan”.
( Sơn tây tỉnh
chí)
(Một
bên là núi Một tai, một bên là núi Biện, ở địa phận xã Vĩnh Mỗ, huyện Yên Lạc
giữa đất bằng nổi lên đồi đất, hình như voi quỳ. Dưới có đâmd sâu, Nguyễn Sứ
quân chiếm Tam Đái, đóng đô ở đấy, vì thế có tên là Nguyễn Gia Loan).
Loan giang – cùng với bạch Hạc giang -
Nguyệt Đức giang tạo nên Tam Đái - trở thành địa danh lịch sử từ thời Sứ quân
(966-968), một “tiểu triều đình” tạo nên bởi ba dải sông (nguyên nghĩa chữ “đái”
là cái đai), nên sự trù phú:
“Nhất Tam Đái, nhì Khoái Châu”.
Năm 1469, vua Lê Thánh Tông thành lập phủ
Tam Đái gồm 6 huyện: Bạc Hạc, Lập Thạch, Phù Ninh, Tiên Phong, Yên Lạc và Yên lãng,
là cốt cán phủ Vĩnh Tường năm 1822 đời Minh Mệnh, mà Yên Lạc – nơi thủ phủ - là
một huyện nổi danh:
“Nam Châu, bắc Dũng, đông Kì, tây Lạc”.
Nghĩa là bốn huyện nổi tiếng về của cải
giầu có, cư dân đông đúc (nhân đa vật thịnh): huyện Châu Ninh tỉnh Nam Định;
huyện Yên Dũng tỉnh Bắc Giang, huyện Tứ Kì tỉnh Hải Dương ở xứ đông, huyện Yên
Lạc ở Sơn Tây (xứ Đoài).
Vậy xứ Đoài, điểm “tụ thuỷ” TAM GIANG (Đà
-Thao – Lô ở Bạch Hạc) để dẫn đến điểm “tụ nhân” Việt Trì - Bạch Hạc, mở ra không
gian Việt, định hình quốc gia Văn Lang Việt Trì thì TAM ĐÁI điểm tụ thuỷ, tụ nhân
làm nên cảnh quan làng đồng bằng – văn hoá làng đồng bằng tỉnh Vĩnh Phúc:
Đầu
đình có giếng phong quang
Có
cây cổ thụ, có hàng nghỉ ngơi
Chợ
Dưng mồng 6 tiệc vui
Bốn
phương náo nức đến chơi Chợ làng.
( Ca dao xã Tứ Trưng huyện Vĩnh
Tường)
Hoặc
như:
Đừng
về đường ấy mà xa
Đi
về Đinh Xá với ta cho gần
Đinh
Xá có giếng rửa chân
Có
sông tắm mát lại gần chợ phiên
Chợ
Lồ một tháng sáu phiên
Ngày
tư ngày chín là phiên chợ Lồ.
( Ca dao huyện
Yên Lạc)
Để tạm dừng, xin có một thông tin thay
cho lời kết:
Tam Đảo – Tam Đái, một nửa núi - một nửa
sông.
(51 điểm thờ cúng thần Tam Đảo – 51 điểm
thờ cúng thần sông Bạch Hạc chép vào tự điển bộ lễ triều Lê – có lẽ trong dân
gian sẽ không “ công bằng” như thế) đã tạo nên:
-Không gian tỉnh Vĩnh Phúc.
-Lãnh địa tỉnh Vĩnh Phúc.
-Trường sinh thái môi sinh – văn hoá tỉnh
Vĩnh Phúc, là cốt lõi tâm linh nguồn cội người Vĩnh Phúc.
Đó là những gì thuộc về núi sông tỉnh Vĩnh
Phúc – non nước ngàn năm.
L.K.T