SÔNG ĐÁY HAY LÀ SÔNG PHÓ ĐÁY
Ở TỈNH VĨNH PHÚC ?
Lê Kim Thuyên.
1. Về phía tây có sông Lô
thượng nguồn từ Tuyên Quang chảy về, vào địa giới tỉnh ở xã Bạch Lưu (Sách “Địa chí tỉnh Vĩnh Phúc” NXB KHXH năm
2012 trang 23, dòng 24 chép lầm là xã Quang Yên. Thực chất là xã Quang Yên và
xã Bạch Lưu đều là các xã địa đầu của tỉnh Vĩnh Phúc về phương tây bắc, nhưng
xã Quang Yên ở vào phía trong, không có sông), qua 08 xã của huyện sông Lô là Đôn Nhân, Phương
Khoan, Tam Sơn, Như Thụy, Yên Thạch, Tứ Yên, Đức Bác, Cao Phong, rrồi tiếp đến
xã Sơn Đông huyện Lập Thạch, qua xã Việt Xuân huyện Vĩnh Tường thì đổ vào sông
Hồng ở nơi Ngã Ba Hạc (Bạch Hạc).
2. Phía tây nam có đoạn sông
Hồng (tức sông Bạch Hạc cũ) ôm bọc lấy
từ xã Việt Xuân cùng 07 xã là các xã Bồ Sao, Cao Đại, Phú Thịnh, Lí Nhân, An Tường,
Vĩnh Thịnh, Vĩnh Ninh; Cùng 04 xã nữa của huyện Yên Lạc là Đại Tự, Liên Châu, Hồng
Châu, Trung Hà rồi phân lưu đổ vào huyện Mê Linh thành phố Hà Nội bắt đầu từ xã
Tiến Thịnh.
3. Sông Nguyệt Đức (còn gọi là sông Cà Lồ), dòng sông chảy
trong nội hạt tỉnh. Khởi nguồn là phân lưu của sông Hồng, tách ra ở xã Trung Hà
huyện Yên Lạc cùng các chi lưu của nó đáng kể như sông Phan đầu nguồn ở xã
Hoàng Đan huyện Tam Đảo, sông Cầu Bòn…..tạo thành hệ thống sông ngòi dài tới 86
km theo hướng tây bắc đông nam rồi đổ vào sông Cầu ở thôn Lương Phúc xã Việt
Long huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội.
4. Cuối cùng là dòng sông
Đáy, một dòng sông được nhà bác học chép Lê Quý Đôn chép trong sách “Kiến văn
tiểu lục”, sách “Đại Nam nhất thống chí” dẫn trong mục sông núi tỉnh Sơn Tây
như sau: “Sông Đáy
phát nguyên từ địa phận huyện Đương Đạo (nay là Sơn Dương), tục gọi xứ thành
Cóc, Cửa Vua, ở đây có dãy núi như cái cầu chắn ngang, nước sông luồn trong núi
chảy ra, hạ lưu chảy qua địa phận các xã thuộc huyện Sơn Dương, đến địa phận xã
Lữ Lương, chảy xuống địa phận các xã Sen Hồ, Tĩnh Luyện. Man Thượng, Man Hạ, Đại
Hỉ, Triệu Tống, Đông Mật và Phú Hậu rồi chảy ra sông Cái, hợp với ngã ba Bạch Hạc”.
(
Bản dịch. Tập 04. Nhà XB KHXH. Hà Nội
1971. Trang 209).
Xin
chú giải như sau:
-
Xã Lữ Lương theo sách “Các tổng xã danh bị lãm” viết vào đầu đời vua Gia Long
(1802-1819) là thuộc tổng Lữ Lương huyên Tam Dương phủ Đoan Hùng trấn Sơn Tây,
nay là thuộc xã Yên Dương huyện Tam Đảo.
-
Xã Sen Hồ, nay là thôn Sen Hồ xã Thái Hòa huyện Lập Thạch.
-
Xã Man Thượng, Man Hạ thuộc tổng Bình
Hòa huyện Lập thạch, nay là thôn Tây Thượng xã Liên Hòa và thôn Tây Hạ xã Bàn
Giản.
-
Xã Đại Hỉ nay là thôn Đại Lữ xã Đồng Ích.
-
Xã Triệu Tống nay là thôn Triệu Xá xã Triệu Đề.
-
Xã Phú Hậu nay là thôn Phú Hậu xã Sơn Đông.
Đều
thuộc huyện Lập Thạch.
Sông Đáy đoạn chảy ở trên cống Cầu Triệu làng Triệu Xá (Triệu Tống)
Cuối cùng thì trong phần “Phụ lục” về “Các dòng sông lớn của nước ta” của sách “Đại Nam nhất thống chí” các tác giả đã viết: “ Sông Đáy thì nguồn tự sông Tiên tỉnh Thái Nguyên, qua Định Châu, huyện Văn Lãng mà vào huyên Sơn Dương, xuyên qua núi mà làm sông Đaý, qua các huyện Tam Dương, Lập Thạch mà vào sông Lô”. (Bản dịch tập 5. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1997, trang 260).
Sông Đáy đoạn chảy ở trên cống Cầu Triệu làng Triệu Xá (Triệu Tống)
Cuối cùng thì trong phần “Phụ lục” về “Các dòng sông lớn của nước ta” của sách “Đại Nam nhất thống chí” các tác giả đã viết: “ Sông Đáy thì nguồn tự sông Tiên tỉnh Thái Nguyên, qua Định Châu, huyện Văn Lãng mà vào huyên Sơn Dương, xuyên qua núi mà làm sông Đaý, qua các huyện Tam Dương, Lập Thạch mà vào sông Lô”. (Bản dịch tập 5. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1997, trang 260).
Tuy
nhiên, trong tờ bản đồ hành chính tỉnh Vĩnh Phúc 1950-1954, in trong “Địa chí
Vĩnh Phúc” năm 2012, trang 148 con sông này lại đề danh là “sông Phó Đáy”.
Bản đồ hành chính tỉnh Vĩnh Phú 1968- 1996, in
trong “Địa chí Vĩnh Phúc” năm 2012, trang 149 cũng đề danh là “ sông Phó Đáy”.
Địa
chí tỉnh Vĩnh Phúc (Sơ thảo) của Nguyễn Xuân Lân do Sở VH –TT xuất bản năm 2000
chép về con sông này như sau:
“Sông
Phó Đáy phát nguyên từ Bắc Cạn, chảy qua Tuyên Quang… vào Vĩnh Phúc từ xã Quang
Sơn (Lập Thạch) ở bên bờ phải và xã Yên Dương ở bờ bên trái, chảy giữa huyện Lập
Thạch (bên phải) và hai huyện Tam Dương, Vĩnh Tường (bên trái) dài 41,5 km rồi
đổ vào sông Lô, giữa xã Sơn Đông ( Lập Thạch) và xã Vệt Xuân (Vĩnh Tường) phía
trên cầu Việt Trì độ 200m”. (Trang 76)
Theo
trong thực tế thì hầu hết toàn bộ các loại hình văn bản dùng trong tỉnh Vĩnh
phúc hiện nay đều có đề danh về con sông này đều là “Sông Phó Đáy”; Vậy là có sự
thay đổi về tên (địa danh) của một dòng sông lớn của tỉnh Vĩnh Phúc có từ rất
lâu đời, nhưng chưa hề có giải thích nguyên nhân và công bố quyết định đổi tên
trong lịch sử.
Điều
băn khoăn đó đã khiến chúng tôi tự đặt cho mình một cuộc truy tìm lại về tên của
con sông quê hương có trong lịch sử, và được biết:
Tên
sông Đáy (Nguyên thư chép là Để Giang. 底 江) do
chữ “Để”
底–
nghĩa là “Đáy”.
Các văn bản xưa chép bằng chữ Hán là “Để Giang”, còn trong giao dịch bằng lời
thì gọi là “Sông Đáy”.
A.Tìm
lại trong kí ức địa phương.
1.Trong
các thư tịch cổ địa phương các làng xã.
Tuy chưa xác
định được tên “Để Giang” xuất hiện lần đầu tiên trong văn bản nào, song Sông Đáy trong ngọc phả đền
Đuông xã Bồ Sao huyện Vĩnh Tường tọa lạc bên tả ngạn sông, có đoạn chép theo
nguyên thư như sau:
…..峰州地有底江近堆邊由被洪水崩破穿至山陽登道皆被水勢簇溢禾穀害多其蒲梢豔春涼臺各庄地界田近江界源入葚其崩破大害人民驚走禾穀皆崩.王即日飭東海官郎與安江二部水官禦洪水在江頭處即底江與瀘江直入白鶴三江水口交來峰州城辰底江一支穿入直破崩裂蒲梢涼臺豔春地脈界透入三島山即青龍本支也.
Phiên âm:
…Phong Châu địa hữu cận Để
Giang đôi biên do bị hồng thủy băng phá xuyên chí Sơn Dương, Đương Đạo giai bị
thủy thế thốc dật hòa cốc hại đa kì Bồ sao, Diệm Xuân, Lương Đài các trang địa
giới điền cận giang giới nguyên nhập thậm kì băng phá đại hại, nhân dân kinh tẩu,
hòa cốc giai băng.
Vương tức nhật sức Đông Hải
quan lang dư An Giang nhị bộ thủy cung ngự hồng thủy tại giang đầu xứ, tức Để
Giang dữ Lô Giang trực nhập Bạch Hạc
giang tam giang thủy khẩu, giao lai Phong Châu thành. Thời Đẻ Giang nhất chi
xuyên nhập trực phá băng liệt Bồ Sao, Lương Đài, Diệm Xuân địa mạch giới, thấu
nhập Tam Đảo sơn tức tả thanh long bản chi dã.
Nghĩa:
Ở
đất Phong Châu liền con sông Đáy, miền bờ sông thường bị nạn lũ lớn phá
hại. Các miền từ huyện Sơn Dương, Đăng Đạo, Tam Dương đều bị nước lũ mạnh nhiều
lần làm hại hoa mầu, nhất là ở các trang Bồ Sao, Diệm Xuân, Lương Đài do gần bờ
sông, nên lại càng bị phá hại thậm tệ. Nhân dân ở đó kinh hãi bỏ chạy, mọi thứ
lúa mầu đều hỏng hết.
Một
ngày kia, nhà vua mới sai hai vị là Đông Hải Quan cùng với An Giang Quan là hai
vị thủy quan đi ngăn chặn nạn lũ lụt tận đầu nguồn. Tức là miền sông Đáy, sông Lô chảy thẳng vào sông
Bạch Hạc, là cửa của ba sông giao nhau thuộc thành Phong Châu. Có một cho là
sông Đáy chảy thẳng vào địa giới của các trang Bồ Sao, Lương Đài, Diệm Xuân. Do
ngọn nước chảy xuống từ núi Tam Đảo, là chi “Tả thanh long” của miền này….
Văn bản được soạn vào ngày
25 tháng 02 mùa xuân niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất (1572) đời vua Lê Anh
Tông, do tác giả là Nguyễn Bính phụng soạn. Vào ngày 25 tháng giêng mùa xuân
niên hiệuVĩnh Hựu năm thứ 3 đời vua Lê Ý Tông (1737) viên quan Quản giám bách
thần tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh là Nguyễn Hiền vâng mệnh kiểm lại. Văn bản
do niên bát phẩm thư lại là Nguyễn Tiến Đức chép lại theo bản chính. (Lưu trữ của Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội,
Số sách là AE. 8/1).
Ngôi đền Đuông này thờ ba vị
thần người thời Hùng vương, con thứ 25 của Lạc Long Quân có công trị thủy ở
sông Đáy, (Di tích xếp hạng cấp Quốc gia,
quyết định số 937/QĐ-BT-1993) nơi có cửa sông đổ vào sông Lô, nên trong đền
còn đôi câu đối:
義 嶺
千 秋 鍾 昊 氣 Nghia Lĩnh thiên thu chung hạo khí.
底 江
一 帶 裕 餘 波 Để giang nhất đái dụ dư ba.
Nghĩa:
Nghĩa Lĩnh nghìn thu
hun khí tốt.
Để
Giang một dải nước còn đầy.
2.
Tìm lại trong văn bản các địa phương làng xã khác nữa.
Vì
huyện Lập Thạch là nơi quê hương tôi, cũng đồng thời trong vài năm đi sưu tầm
tư liệu địa phương để viết cuốn “Hai bà Trưng và các tướng của Hai Bà trên đất
Vĩnh Phúc. Di tích - Sự tích” (Sách đâ xuất
bản năm 2003 do ấn phẩm của Sở VH TT – TT) tôi đã có dịp đi lại nhiều lần đọc
theo hai bờ sông Đáy, khảo sát tường tận các di tích dọc bờ sông, ghi chép lại
tỷ mỉ đều theo các nguyên thư các câu đối trong các di tích là đình, miếu, đền
các làng xã ven sông, tính từ thượng lưu ở hai xã Quang Sơn – Yên Dương trở xuống.
Rất hay là các di tích đều đã được xếp hạng Lịch sử - Văn hóa, và có kết quả
như sau đây:
A. Thuộc huyện Lập Thạch.
1. Ở đền Ẩn xã Hợp Lí bên hữu ngạn sông. Di tích thờ về thời
hai bà Trưng. (Xếp hạng cấp Tỉnh-Thành phố
số 341-1996) Có đôi câu đối viết:
坤 道
栽 培 民 仰 德 Khôn đạo tài bồi dân ngưỡng đức.
底 江
支 派 水 長 流 Để Giang chi phái thủy trường lưu.
Nghĩa:
Đạo
Mẹ đắp bồi dân trông đức.
Để
Giang chi phái nước còn dài.
2. Ở miếu làng Bến thôn Phú
Cả xã Liên Hòa, tọa lạc xáp mép nước, bên hữu sông. (Xếp hạng cấp Tỉnh- Thành phố năm 1993). Di tích thờ về thời Hùng
vương thứ nhất, thánh tâm bài vị ghi 4 chữ
danh hiệu 屹
峻 高 山 Ngật Tuấn Cao Sơn Có đôi câu đối:
蒲 嶺 脈 流 千 古 泰 Bồ Lĩnh mạch mưu
thiên cổ thái.
底 江
遶 億 萬 年 長 Để Giang nhiễu ức vạn niên trường.
Nghĩa:
Bồ
Lĩnh mạch lưu nghìn xưa lớn.
Để
Giang vây ức vạn năm dài.
Bồ Lĩnh là đỉnh núi Bồ, tục
danh là Bồ Muối, Bồ Gạo hai quả núi cao nhất của địa phương.
B. Huyên Tam Dương.
1. Ở miếu thôn Yên Thượng xã
Yên Hòa. Di tích tọa lạc bên tả ngạn sông, thờ về thời hai Bà Trưng. (Xếp hạng Tỉnh-Thành phố năm 2004). Có
đôi câu đối:
梁 山
秀 氣 化 香 遠 Lương sơn tú khí hoa hương viễn.
底 水
澄 清 月 色 光 Để thủy trừng thanh
nguyệt sắc quang.
Nghĩa:
Lương
Sơn cảnh đẹp hoa hương bay xa mãi.
Nước
sông Đáy trong lặng trăng sáng trong.
Lương Sơn là tên quả gò có
di tích tọa lạc, Để thủy là nước sông Đáy chảy xáp chân gò.
2. Ở miếu Đô Gối. Miếu của
thôn Đô Gối, xã Yên Hòa, ngôi miếu thứ hai dọc triền tả ngạn sông, xáp mép nước.
Di tích thứ hai về thời hai bà Trưng trong xã.
峙 對
島 山 千 歿 尺 Trĩ đối Đảo sơn thiên một xích.
峽 澄
底 水 月 光 明 Giáp trừng Để thủy
nguyệt quang minh.
Nghĩa:
Đối
cao Tam Đảo nghìn lẻ thước.
Giáp
lòng nước Đáy trăng sáng trong.
Đảo Sơn là núi Tam Đảo.
3. Ở đền Dầu thôn Tĩnh Luyện
xã Đồng Tĩnh. Tọa lạc bên tả ngạn sông. Di tích thờ bà Quốc Mẫu Tây Thiên núi
Tam Đảo, thời Hùng vương thứ 07.
油 嶺 鬱 蔥 燈 虎 炤 Du Lĩnh uất thông đăng hổ chiếu.
底 江 澄 浪 疫 龍 騰 Để giang trừng lãng dịch long đằng.
Nghĩa:
Đỉnh
Du rậm rạp đèn đang chiếu.
Để
Giang sóng lặng bước rồng bay.
Du Lĩnh là đỉnh núi có tên
là Du, nơi có di tích tọa lạc.
4. Ở miếu Đức Bà thôn Phù Liễn
xã Đồng Tĩnh tọa lạc bên tả ngạn sông. Di tích thờ cúng về thời hai Bà Trưng, (Xếp hạng cấp Tỉnh-Thành phố năm 1900).
Có câu đối:
島 嶺 山 寰 鍾 旺 氣 Đảo Lĩnh sơn hoàn
chung vượng khí.
底 江
水 遶 溯 源 長 Để Giang thủy nhiễu tố nguyên trường.
Nghĩa:
Đảo
Lĩnh núi vòng hun khí vượng.
Để
Giang nước quấn tưởng nguồn dài.
5. Ở đình làng Hoàng Vân xã
Hoàng Đan. Toa lạc bên tả ngạn sông. Di tích thờ 05 vị thành hoàng là các vị có
công trị thủy thời Hùng vương. (Xếp hạng
cấp Tỉnh-Thành phố năm 1994). Có câu đối:
底 水
移 山 天 地 造 成 光 景 秀 Để thủy Di sơn thiên địa tạo thành
quang cảnh tú.
亭 前
禪 後 古 今 心 想 繼 承 恩 Đình tiền Thiền hậu cổ kim tâm tưởng kế
thừa ân.
Nghĩa:
Nước
Đáy, núi Di trời đát tạo thành quang cảnh đẹp
Tiền
đình, hậu Phật xưa nay tâm tuởng nối ơn
trên.
Di Sơn là núi Di, một quả gò
trong làng.
Hoặc như câu:
峙 對 島 山 千 歿 尺
峽 澄 底 水 月 光 明
Phiên âm:
Trĩ đối Đảo sơn thiên
một xích
Giáp trừng Để thủy
nguyệt quang minh.
Nghĩa:
Vót cao ứng Đảo nghìn lẻ thước
Sóng dồi một Đáy, ánh trăng soi.
Như vây là hình tượng con sông Đáy (Để giang) đã thực sự trở thành hình tượng núi sông trong tâm thức
các miền đất này.
B.Tìm
trong các trước tác là các sách địa li lịch sử.
Từ thế kỉ 18, năm Cảnh Hưng Đinh dậu (1777),
trong tác phẩm “Kiến văn tiểu lục” nhà bác học Lê Quý Đôn đã có viết về sông
Đáy (Để Giang 底江),
về sau được các sử thần trong Quốc Sử Quán triều Tự Đức (1848 - 1883) dẫn trong sách “Đại nam nhất thống
chí” .(Đã dẫn ở đầu trang)
Về sách địa phương chí, ở thời vua Minh Mệnh triều Nguyễn,
có sách “Sơn Tây tỉnh chí” 山西省誌 (Không ghi tên soạn giả. Sách của thư viện Viện
nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội – số đăng kí A. 857) trong mục sông lớn (”Đại xuyên”) tỉnh Sơn Tây (tờ 20b) không thấy chép riêng mục về con sông này. Có thể tác giả
cuốn sách cho con sông này là “sông nhỏ” không đáng chép. Tuy nhiên, trong mục các sông lớn, khi
chép đến sông Lô, lại có đọan ghi: 瀘江…至立石縣富厚社與底江合. “Lô giang...chí Lập Thạch huyện Phú Hậu xã dữ Để Giang hợp”, nghĩa là : Sông Lô...chảy đến xã Phú Hậu huyện Lập Thạch thì hợp với sông Đáy.
Rồi ở mục đầu 彊域夾近 “Cương vực giáp cận” (bờ
cõi giáp gianh) của huyện Bạch Hạc (nay
là huyện Vĩnh Tường LKT) có chép: 西夾底江 “Tây giáp Để Giang” (tờ 4b) (phía tây giáp sông Đáy). Của huyện Lập Thạch
thấy có chép : 東夾底江“
Đông giáp Để Giang” (tờ 5a) (phía đông giáp sông Đáy) rõ ràng có con
sông Đáy là gianh giới tự nhiên của hai huyện.
Đến
đời vua Tự Đức (1848 – 1883), khi biên soạn bộ sách “Đại Nam nhất thống chí”,
các sử thần của Quốc sử quán lúc đó đã dẫn ghi thành một mục về “Sông Đáy” như
sau: “ Ở địa phận huyện Tam
Dương, phát nguyên từ sông Tiên tỉnh Thái Nguyên, một chi lưu tách ra, tục gọi sông Đế, chảy qua địa phân
châu Định và huyện Văn Lãng đến địa phận huyện Sơn Dương làm sông Đáy, lại chảy
về phía đông qua địa phận huyện Lập Thạch chảy vào sông Lô rồi đổ xuống
sông Bạch Hạc”. (Bản dịch
tập 4, trang 209. NXB KHXH. Hà Nội năm 1971).
Rồi đến bộ sách địa chí lớn biên soạn vào cuối
triều Nguyễn là sách
“Đồng Khánh địa dư chí”, bộ Địa chí do quan chức các tỉnh biên soạn theo sắc chỉ
của vua Đồng Khánh (1886-1888), một bộ sách được đánh giá là “ một hồ sơ quan
trọng của triều Nguyễn, ngày nay đã trở thành một tác phẩm ở vào vị trí cuối
cùng của di sản thư tịch cổ Việt Nam về địa lý học” (Ngô Đức Thọ. Bản dịch
trang XXV), là bộ địa chí toàn quóc, đầy đủ các tỉnh từ Cao Bằng đến Hà
Tiên, trước khi Nam Kỳ lục tỉnh bị thực dân Pháp chiếm làm thuộc địa. Chính vì
vậy mà địa danh nhiều làng xã, nhiều tên núi, tên sông còn giữ được các địa
danh truyền thống, theo pháp lí nhà nước.
Cuốn sách đã được dịch ra 3
ngôn ngữ là Việt, Anh, Pháp bởi Ban biên tập gồm các vị Ngô Đức Thọ, Nguyễn Văn
Nguyên, Philippe Papin, Phan Văn Các, Lê Việt Nga, Dương Thị The và công bố bởi
sự ủng hộ nhiệt tình của hai cơ quan là:
- Viện nghiên cứu Hán Nôm,
thuộc Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia.
- Viện Viễn Đông Bác cổ.
- Và sự giúp đỡ về tài chính
của Quỹ Ford Hoa Kỳ tại Việt Nam .
Nhà xuất bản Thê Giới Hà Nội
năm 2003.
Trong mục “Tỉnh Sơn Tây”, có
ghi chép về các “Đường sông”: Kể những sông lớn như sông Lô, sông Thao, sông Hạc, sông
Đà. Thứ đến là sông Lôi, sông Đáy, sông
Hát, sông Nguyệt Đức, sông Mỹ Giang, sông Chiết Giang.
Xem trang 905 bản dịch tiêng
Việt.
(Mỗi dặm = 720 mét; trượng= 4 mét; thước =
0,4 mét).
Tiếp nữa là con sông Đáy còn
được ghi chi tiết trong các mục ghi về sông núi các huyện thuộc lưu vực nó chảy
qua.
Với huyện Sơn Dương, có :
“ Một dòng
sông nhỏ tiếp liền với giang phận tỉnh Thái Nguyên, chảy qua địa giới huyện, đến
giang phận huyện Lập Thạch. Đó là sông Đáy, dài 50 dặm, rộng 5 trượng, sâu khoảng
1 trượng 2-3 thước”.
Xem bản dịch tiếng Việt,
trang 960.
Ở huyện Tam Dương thấy có
ghi;
“Một sông nhỏ
tiếp liền giang phận huyện Sơn Dương chảy qua địa giới huyện đến giang phận huyện
Lập Thạch. Đó là sông Đáy, dài 8 dặm 15 trượng, rộng 5 trượng, sâu khoảng 1 trượng
2-3 thước”.
Xem trang 936 bản dịch tiếng
Việt.
Ở mục “sông núi huyện Bạch Hạc”
(huyện Vĩnh Tường ngày nay), cũng có con sông “Một sông nhỏ
tiếp liền với giang phận huyên Tam Dương, chảy qua địa giới huyện đến sông Lô.
Đó là sông Đáy, dài 22 dặm, rộng 5 trượng, sâu khoảng 1 trượng 2-3 thước”.
Xem trang 931 bản dịch tiếng
Việt.
Với huyện Lập Thạch thì con
sông này được mô tả: “Một sông nhỏ
tiếp liền với giang phận huyện Tam Dương, chảy qua địa giới huyện, đến sông Lô.
Đó là sông Đáy. Sông chảy quanh co, dài 32 dặm, rộng khoảng 5 trượng, sâu khoảng
1 trượng 2-3 thước.”
Xem trang 934, bản dịch tiếng
Việt.
Như vậy tổng số độ dài chảy
qua 4 huyện là 11.640mét.
Cả 4 huyện đều không có tên
sông là “Phó Đáy”.
Kiểm tra thêm về tư liệu địa
chí các huyện do quan chức địa phương viết,
Tôi xin giới thiệu thêm bộ sách nưã của cụ “kép tú” Vũ Lân, người xã Sơn Đông huyện Lập Thạch, có viết
sách Địa chí về bản huyện khi đang ở chức
quan Huấn Đạo huyện Lập Thạch vào đời Vua ThànhThái (1889–1907).
.
Ảnh theo nguyên thư bản chụp của
Lê Kim Thuyên về sông Đáy trong sách của Vũ Lân.
Trong mục “Núi sông” của huyện,
tác giả Vũ Lân viết:
“ Sông:
- Sông
Lô phát nguyên từ tỉnh Tuyên Quang, chảy qua huyện. Đầu sông chảy vào từ xã Bạch
Lưu Thượng, dưới đến xã Phú Hậu.
- Sông
Đáy phát nguyên từ tỉnh Thái Nguyên, chảy qua huyện. Đầu sông nơi chảy vào từ
xã Sơn Lý. Dưới đến xã Phú Hậu.
Hai
sông hợp dòng chảy ra sông Nhĩ Hà (Sông Hồng – LKT).
Xem Văn bản đăng trong Tạp san” Văn Hóa Vĩnh
Phúc” của Sở Văn Hóa Thông Tin Vĩnh Phúc. Số 10. Tháng 6 năm 2997. Số chuyên đề
huyện Lập Thạch.
Trang 14.
Như vậy
là từ văn bản Địa chí Quốc gia đến văn bản Địa chí cấp huyện sở tại đều xác nhận
huyện Lập Thạch không có dòng sông nào là “Phó Đáy” (!) cả.
Năm 1999 tỉnh Vĩnh Yên được
thành lập, gồm 1 phủ Vĩnh Tường và 4 huyện Bình Xuyên, Lập Thạch, Tam Dương
cùng Yên Lạc. Cứ theo như dẫn liệu của các sách Địa chí kể trên thì Lập Thạch,
Tam Dương và huyện Vĩnh Tường là vùng đất thuộc lưu vực có con sông Đáy chảy
qua.
Từ năm 1999, tổ chức chính
quyền cấp tỉnh Vĩnh Yên có tòa Công sứ do công chức người Pháp đứng đầu, có tất
cả 21 viên thay nhau bắt đầu từ Công sứ M. M Lome cho đến năm 1937. Bên công chức
người Nam
có dinh Tuần phủ, có cả thảy 12 viên thay nhau bắt đầu từ ông Đỗ Phú Túc. Đến
người thứ 5 là ông Nguyễn Văn Bân, người xã Hữu Bằng, huyện Thạch Thất tỉnh Sơn
Tây (Nay là thôn Hữu Bằng huyện Thạch Thất Hà Nội) trị nhậm từ năm 1922
đến năm 1924. Ông Bân đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa Tân sửu niên hiệu Thành
Thái năm thứ 13 (1901), đến năm 1924 thì viết bài “Vĩnh Yên phong thổ
ký” 永安風土記 đăng trên “Nam
Phong tạp chí”
南風雜誌 xuất bản ở Hà Nội. Nguyên
văn bằng chữ Hán (có phần dịch chữ Quốc ngữ). Về mục “sông”, ông Bân viết:
“ hữu Để giang, Lô Giang tự Tuyên Quang lai. Thao giang tự
Phú Thọ lai. Quần hội Bạch Hạc xã giang phận, danh Tam Kỳ Hạc giang”. Nguyên thư: 川有底江瀘江自宣光來洮江自富壽來均會於白鶴社江分名三岐鶴江
(Về sông, có
sông Đáy, sông Lô chảy từ Tuyên quang về. Sông Thao từ Phú Thọ chảy về. Tất cả
đều hợp lại ở sông Bạch Hạc, có tên là Tam Kì Hạc giang).
Tỉnh Tuyên Quang lúc này gồm cả
châu Sơn Dương, nay là huyện Sơn Dương và huyên Yên Sơn thuộc đầu nguồn sông
Đáy. Nơi đây nằm trong khu ATK Việt Bắc, trong cuộc Cách mạng và kháng chiến
trường kì của dân tộc ta chống thực dân Pháp.
Chúng ta đều đã biết, trong
số các bài thơ của chủ tịch Hồ Chí Minh viết ở chiến khu Việt Bắc trong giai
đoạn khởi đầu của cuộc kháng chiến chống thức dân Pháp trong cuộc trường kì 9
năm (1946 – 1954), có 2 bải viết trên sông Đáy.
Bài
thư nhất là bài “Nguyên tiêu”, viết vào ngày Rằm tháng giêng năm Mậu Tí (1948). Toàn văn bằng chữ Hán, như
sau:
元宵
今夜元宵月正圓
春江春水接春天
煙波深處談軍事
夜半歸來月滿船
Phiên
âm:
Nguyên tiêu
Kim
dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân
giang xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên
ba thâm xứ đàm quân sự
Dạ
bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Dưới
đây là bản dịch của ông Xuân Thủy.
Truyện
được kể rằng: Sau khi đọc xong bài thơ cho mọi người trong cơ quan chính phủ
cùng nghe, Bác Hồ có nói: “Trong bài thơ, Bác có nhắc đến tên chú Xuân Thủy, vậy
chú Xuân Thủy hãy dịch đi”. Và nhà thơ Xuân Thủy đã dịch như sau:
Rằm xuân lồng lộng trăng soi
Sông xuân nước lẫn mầu trời thêm xuân
Giữa dòng bàn bạc việc quân
Khuya về bát ngát trăng ngân đầy thuyền
Bài
thơ được làm theo thể “hứng”, tức sự sau một cuộc hội nghị quân sự để bảo bí mật
tuyệt đối đã được chọn địa điểm họp ở trên sông. Tuy không đề địa danh là con
sông nào, nhưng rõ ràng để giữ bí mật con sông phải ở trong A T K khu Việt Bắc,
Định Hóa từ ngày 20 tháng 11 năm 1947 đến tháng 01 năm 1954. Khu Định Hóa nằm
trong vùng thủ đô của cuộc kháng chiến gồm một miền rộng lớn trong chiến khu Việt
Bắc bao gồm Pác Bó (Cao Bằng), A T K Định Hóa (Thái Nguyên), Chợ Đồn ( Bắc Kạn),
Chiêm Hóa, Sơn Dương, Yên Sơn (Tuyên Quang). Con sông chảy trong vùng đó là con
sông Đáy, phát nguyên từ vùng núi Tam Tạo, huyên Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, Đoạn
trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn dài 36 Km, diện tích lưu
vực là 250 Km2, lưu lượng bình quân là 8,7 m3/s. Đoạn trên địa bàn tỉnh Tuyên
Quang là 84 Km. chảy qua các huyện Yên Sơn, Sơn Dương.
Có đình Tân Trào thuộc xã Tân Trào huyện Sơn Dương tỉnh Tuyên Quang, nơi ngày
16 tháng 8 năm 1945, Bác Hồ và Trung Ương đã triệu tập các đại biểu trên khắp mọi
miền Tổ quốc về họp Quốc dân Đại hội, thông qua lệnh Tổng khởi nghĩa và 10
chính sách lớn của Việt Minh, quy định quốc kì là lá cờ đỏ sao vàng. Quốc ca là
bài Tiến quân ca và cử ra Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam , tức Chính phủ Lâm thời do cụ Hồ
Chí Minh làm chủ tịch. Để rồi sáng ngày 17 tháng 8 năm 1945, thay mặt Ủy ban
Dân tộc Giải phóng Việt Nam, cụ Hồ Chí Minh đã đọc lời thề thiêng liêng trong lễ
ra mắt Quốc dân tại đây.
Địa
danh thuộc bờ tả sông.
Ở
đó còn đôi câu đối thờ ghi về phong thủy ngôi đình như sau:
底江左抱靈源會
玉井右朝瑞氣鍾
Để giang tả bảo
linh nguyên hội
Ngọc tỉnh hữu triều thụy khí
chung.
Nghĩa
là:
Sông Đáy bên trái ôm lấy, nguồn thiêng
cùng họp.
Giếng Ngọc bên phải chầu về, khí tốt tụ
lại.
Rồi
con sông tiếp tục chảy vào huyện Lập Thạch, Tam Đảo, Tam Dương, Vĩnh Tường tỉnh
Vĩnh Phúc dài 41,5 Km, đổ ra sông Lô ở bến Gót làng Phú Hậu
xã Sơn Đông.
Cho nên bài thơ được sáng tác trong đêm
“Nguyên tiêu” là có cơ sở trên thuyền ở đoạn sông Đáy này thuộc tỉnh Tuyên
Quang. Đó là dòng sông chảy giữa lòng Việt Bắc. Ghi dấu chân Chủ tich Hồ Chí
Minh qua lại nhiều lần bên đôi bờ. Và có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi dọc chiều dài miền thượng nguồn con sông Đáy này. trong
những tháng năm trước Cách mạng và trong cuộc kháng chiến trường kì chống thực
dân Pháp.
Từ
cảm hứng trong thơ “Nguyên tiêu” của Bác, năm 2003, Hội nhà văn Việt Nam đã chọn ngày rằm tháng giêng hàng năm làm “Ngày
thơ việt Nam ”,
ghi nhận dư âm của bài thơ mãi mãi vang vọng với người Việt nam yêu thơ.
Bài
thơ thứ hai Bác viết ngày 18 tháng 8 năm 1949, nghĩa là sau bài “Nguyên tiêu”
hơn một năm, có đề danh là “Đi thuyền trên sông Đáy”, lúc đó
cuộc kháng chiến chống Pháp cuẩ nhân dân ta đã bước vào giai đoạn chuẩn bị tổng
phản công.
Nguyên
văn bài thơ dẫn như sau:
Dòng
sông lặng ngắt như tờ.
Sao
đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo.
Bốn
bề phong cảnh vắng teo,
Chỉ
nghe cót két tiếng chèo thuyền nan,
Lòng
riêng riêng những bàng hoàng.
Lo
sao khôi phục giang san Tiên Rồng.
Thuyền
về, trời đã rạng đông.
Bao
la nhuốm một màu hồng đẹp tươi.
Đây
có thể là cảm xúc của Bác nhân một lần đi công tác trên sông Đáy vào một đêm.
Con
sông thời điểm đó vẫn có địa danh là “Sông Đáy” như tiêu đề bài thơ. Đúng như
nhà thơ Tố Hữu từng nhắc đến trong bài thơ Việt Bắc viết tháng 10 năm 1954, có
những câu:
…Nhớ
từng bản khói cùng sương
Sớm
khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ
từng rừng nứa bờ tre
Ngòi
Thia sông Đáy, Suối Lê vơi đầy….
Ngòi Thia ở phía nam xã Tân Trào thì vẫn còn
hiện hữu, tại bến Thia thôn Tân Lập (tên
mới đặt của làng Kim Long) xã Tân Trào huyên Sơn Dương; Tỉnh Tuyên Quang đã cho
dựng bia ghi nhận sự tích Cụ Hồ Chí Minh đi mảng qua sông Đáy vào làng Kim Long hoạt động Cách mạng ngày 21
tháng 5 năm 1945. Suối Lê tức suối Lê
Nin, địa danh do cụ Hồ đặt cho một con suối chảy lượn vòng dưới chân một ngọn
núi cũng do cụ Hồ đặt tên là núi Các Mác, địa điểm cạnh hang Pác Bó thuộc tỉnh
Cao Bằng, nơi Cụ Hồ trở về nước hoạt động cách mạng ngày 08 tháng 02 năm 1941
sau 30 năm bôn ba hải ngoại.
Trở
lại với bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Lúc đó,
những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về xuôi, Trung ương Đảng
và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô Hà Nội. Nhân sự kiên này mà
bài thơ ra đời, chưá đựng những tình cảm cách mạng của những người chiến sĩ
cách mạng với chiến khu “Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn”.
Như
vậy trong thời điểm lịch sử từ trong cuộc kháng chiến năm 1947 đến năm 1954, con sông vẫn có tên là
“sông
Đáy” trong văn bản của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Và từ đó đến
nay (năm 2014) chưa từng thấy có sự thay đổi nào về tên sông.
Vậy thì, địa danh Sông Đáy đổi
thành sông ‘Phó Đáy”, hẳn là ở vào thời điểm, những năm 30 của thế kỉ 19, là thời
kì thực dân Pháp mở rộng việc truyền bá “tân học” ở các tỉnh xứ Bắc Kì. (Tôi gạch
dưới)
Đó cũng là thời kì, do yêu cầu
truyền bá giáo dục “Tân học” (thay cho các trường dạy chữ Nho “Cựu học”), nhất
là ở các trường Pháp Việt, (Trường công do nhà nước Pháp bảo hộ lập ra), một
trào lưu biên soạn sách “Địa chí” địa phương các tỉnh lần lượt được biên soan bằng
chữ Pháp (do người Pháp biên soạn) và chữ Quốc ngữ do một số tác giả là
người Việt, nhằm làm sách “Truyền bá” dạy về môn Địa lý – Lịch sử trong các trường
Pháp Việt theo chỉ dụ mới của chính quyền Pháp. Có thể coi là một cải cách giáo
dục về chương trình học theo chế đọ “bảo hộ” ở Bắc Kì..
Trong trào lưu ấy, phải kể đến
ông Lotzer, quan công sứ tỉnh Vĩnh Yên (Tháng 8 năm 1931 đến tháng 4 năm
1933) biên sọan sách “Monographie de la province Vinh Yen” (Địa chí tỉnh
Vĩnh Yên) // H.1933. Ông Lotzer, trong sách này có chép tên sông Đáy là
“Phó Đáy”. (xem bản sao thư viện tỉnh
Vĩnh Phúc)
Năm 1939, Nha Học chính tỉnh
Vĩnh Yên biên soạn và phát hành cuốn “Địa chí tỉnh Vĩnh Yên” bắng chữ Quốc ngữ (Nhà in Thụy Ký Hà Nội) theo lời chỉ dẫn của
quan Công sứ lúc đó là Henri MENEAUTE tất nhiên có nhiều đoạn dẫn từ sách của
công sứ Lotzer, trong đó có sông tên “Phó Đáy”. (Xem mục “Vĩnh Yên hình thế”). Tất nhiên là cuốn sách cũng nhằm giảng dạy trong các trường Pháp Việt
trong tỉnh.
Đó là các sách “Địa phương
chí tỉnh Vĩnh Yên” của thời thuộc Pháp cai trị, phát hành từ năm 1933 đến năm 1939, nghĩa là cách nay khoảng
80 năm cho xứ thuộc địa.
Trên phương diện cả nước,
năm 1930, có xuất bản cuốn sách “Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ” viết bằng chữ Quốc ngữ
của nhóm soạn giả gồm 3 người là các ông Đỗ Đình Nghiêm, giáo học Trường Thực
hành nam sư phạm, Ngô Vi Liễn, Tri huyện tại Tơ phiên Hải Dương và Phạm Văn
Thư, Giáo học Trường Sinh Từ Hà Nội do
nhà in Lê Văn Tân ấn hành (in lại lần thứ 4 năm 1930). Cũng nhằm truyền
bá về Địa lý Nhân văn của xứ Bắc Kỳ thuộc Pháp “bảo hộ” lúc bấy giờ.
Trong mục sông ngòi xứ “Bắc
Kỳ hình thể” có đoạn chép: “Ở Việt Trì, Hồng Hà còn có sông Đáy tức là Hát Giang chảy
vào nữa. Hát Giang hợp với Hồng Hà đến khỏi Sơn Tây thì chảy một mình xuống
phía Nam, qua Phủ Lý, Ninh Bình, Phát Diệm rồi ra bể, có sông Phủ Lý (Châu
Giang) và sông Nam Định (Vị Hoàng Giang) chảy thông vào. Còn Hồng Hà thì chảy
qua Hà Nội, Hưng Yên rồi ra bể phân ra nhiều cửa như cửa Trà Lý, cửa Ba Lạt,
vân vân…” (Xem trang 11).
Cần chú ý là ở đây các tác
giả đã đổi tên sông Hát làm thành sông Đáy.
Trong mục “Sông” tỉnh Sơn
Tây, thấy có chép : “Về hữu ngạn sông Hồng Hà thì có những suối chảy từ trên dãy
Ba Vì xuống họp lại thành sông Con, ở phía đông thì có Sông Đáy (Hát Giang)
phân địa giới tỉnh Sơn Tây và tỉnh Hà
Đông”.
(Xem trang 95)
Về tỉnh Vĩnh Yên, mục thứ
XXV (từ trang 107), các tác giả đã viết về sông ngòi như sau: “
Ở
Vĩnh Yên có sông Hồng Hà, sông Cà Lồ và nhiều những lạch con, phần nhiều chảy tụ
cả vào hồ Tích sơn, sông Đầm Vạc và sông Cà Lồ. Chỉ có hai con sông nhớn thời
mùa nào thuyền cũng đi được mà thôi. Ở tả ngạn sông Hồng Hà thì có nhiều sông
con ở trên núi Tam Đảo chảy xuống, rồi mấy con hợp lại thành sông “Tiểu Đáy” (sông Đáy Nhỏ, LKT) là một chi lưu sông Lô Giang, còn thì chảy vào sông Cà Lồ….”. Đến đây tháy các tác giả
đẫ đổi tên 2 con sông:
- Sông Hát thành sông Đáy
- Sông Đáy của tỉnh Vĩnh Yên
thành sông “Tiểu Đáy”.
(Xem trang 112).
Bắt đầu thấy có sự lộn xộn từ
đây.
Ở mục tỉnh Tuyên Quang, các
tác giả cũng chép: “Sông Lô Giang bắt đầu vào tỉnh Tuyên Quang từ Vĩnh Tuy. Những
chi lưu lớn của sông ấy là sông Gâm, sông Chảy, sông Con và sông Đáy”. (Xem trang 108)
Trong mục “Sông ngòi” tỉnh
Thái Nguyên, sách ấy viết rõ: “Về phía tây bắc ở châu Định Hóa có thượng lưu sông Đáy” (Xem trang 104). Sự
lộn xộn về tên sông Đáy đại loại là như thế. Chứng tỏ trong vòng 10 năm con
sông Đày chưa được định danh ổn định:
- Sông Đáy là sông Hát. Ngô
Vi Liễn. Năm 1930
- Sông Đáy là sông “Tiểu
Đáy”. Ngô Vi Liễn năm 1930.
- Sông Đáy là sông Phó Đáy.
Công sứ Lotzer, năm 1933.
- Sông Đáy là sông “Phó
Đáy”. Nha Học Chính tỉnh Vĩnh Yên. Năm
1939.
- Sông Đáy của tỉnh Thái
Nguyên và tỉnh Tuyên Quang., tức là phần thượng nguồn của sông Phó Đáy tỉnh
Vĩnh Yên.
Năm 1941, một tác giả “tân học”
nưã là ông Pham Xuân Độ, với danh chức là “kiểm học tỉnh Đoài” (Như chức
Thanh tra sở Giaó dục-Đào tạo hiện nay) viết cuốn “Sơn Tây tỉnh địa chí” là
theo nhu cầu của “chương trình các lớp dự bị, sơ đẳng và trung đẳng thì phải
học địa dư tỉnh hạt, mà những quyển luận riêng về từng tỉnh hãy còn thiếu thón.
Tuy rằng các sách nói về Đông Pháp (Xứ Đông Dương thuộc Pháp. LKT) hay xứ Bắc Kỳ
đã có nhiêu. Nay ông Phạm Xuân Độ, kiểm học tỉnh Đoài xuất bản quyển này thật
là phải lúc” (Lời tựa của viên thanh
tra học chính Mougenel), thì đó là loại sách “giáo khoa” dạy về địa lý – lịch
sử các địa phương.
Trong sách, ông Phạm Xuân Độ
dẫn theo sách cuả ông Ngô Vi Liễn, thừa nhận : “Hát Giang, hay sông Đáy là một chi
nhánh của Hồng Hà. Sông nay làm giới hạn cho tỉnh Sơn Tây về phía Hà Đông. Du
khách đi từ Hà Nội đến tỉnh lộ Sơn Tây phải qua cầu Phùng – một chiếc cầu sắt
kiên cố đồ sộ có 3 lối đi, giữa là lối để riêng cho xe cộ, hai bên là đường của
khách bộ hành; Cầu bắc qua sông Đáy trên đường liên tỉnh số 11. Địa phận tỉnh
Sơn Tây kể từ đầu cầu phía Hà Đông, nơi có biển đề. Mạn bên này tỉnh Sơn Tây đã
đặt đồn binh nhỏ tức là đồn sông Đáy, bởi nơi đây là một địa điểm xung yếu về mặt
phòng thủ”
(Xem trang 43).
Đến đây thì con sông Đáy được
đặt vào địa phận tỉnh Sơn Tây. (1930), không tọa lạc địa phận tỉnh Vĩnh Yên nữa
mà trong lưu vực một đoạn của sông Hát truyền thống trong sử sách. Còn Sông Đáy
của các sách Địa chí xưa thì thành sông “Tiểu Đáy”. (1930). Ông công sứ tỉnh
Vĩnh Yên thì “có công” phát hiện ra sông “Phó Đáy” của tỉnh Vĩnh Yên (Năm
1933), và được nhắc lại vào năm 1939. Tài liệu giáo dục học đường.
Sau Lotzer, ông Nguyên Xuân
Lân (nguyên cán bộ Thư Viên tỉnh Vĩnh Phú)
“có công” truyền bá tên sông “Phó Đáy” trong tác phâm “Địa chí
Vĩnh Phú” (Ty Văn hóa Vĩnh Phú xuất bản.
Năm 1974, và từ năm 2000 là sách “Địa chí Vĩnh Phúc”, sở Văn hóa Thông tin Thể thao Vĩnh Phúc xuất bản).
Các bản đồ tỉnh Vĩnh Phúc in ấn đó do vậy đều đề danh là “Sông Phó Đáy. Có thể
ông Nguyễn Xuân Lân mới chỉ biết đến sách “Monographie de la province Vinh Yen”
(Địa chí tỉnh Vĩnh Yên) của công sứ Lotzer nên chỉ thấy ông giới thiệu về
sông “Phó Đáy” trong sách của mình mà không có một chú giải nào thêm về con
sông này..
Đó là kết quả và cũng quá
trình thay đổi tên sông Đáy thành sông Phó Đáy, bị cuốn vào dòng chảy trong các
sách in ấn dưới thời thuộc Pháp. Cho đến ngày nay thì tên sông Đáy đã mất hẳn về
mặt văn bản ở Vĩnh Phúc và trên phạm vi cả nước, và thay vào đó là tên sông
“Phó Đáy” nhan nhản trên các ấn phẩm là sách báo, bản đồ ở Trung ương và các địa
phương và các trang thông tin điện tử mạng xã hội.
Lời cuối của bày này là để dẫn
đến một nhận xét sau đây:
1. Đổi tên sông Hát thành
sông Đáy tỉnh Sơn Tây.
Sông Hát, hay Hát Giang theo
như dẫn giải của sách “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc Sử quán triêu Tự Đức
(1848 – 1883) trong mục “Núi sông tỉnh Sơn Tây” thì lưu vực của sông này là: “Ở cách huyện
Phúc Thọ 17 dặm , do hạ lưu sông Bạch Hạc chảy vào, cửa sông nông về mùa đông
và mùa xuân có thể lội qua được, về mùa hạ và mùa thu, nước lũ đổ đến, nước từ
sông này chảy về phía nam, qua các huyện, Đan Phượng và Yên Sơn, chảy quanh co
54 dặm đến địa phận huyện Chương Đức tỉnh Hà Nội thì hợp với sông Tích”.
(Xem bản dịch tiếng Việt,
Tập 4. NXB KHXH Hà Nội – 1971 trang 209).
Quãng
sông này còn có tên cũ là sông Hát hay Hát giang. Chỗ sông Hồng tiếp nước là
Hát Môn. rồi đổ ra vịnh Bắc Bộ ở Cửa Đáy, xưa gọi là cửa Đại An hay Đại Ác
thuộc huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình.
Ông Phạm Xuân Độ từng viết: “Hát Giang hay sông Đáy là một chi nhánh Hồng Hà……. Sông sở
dĩ có tên là Hát Giang vì chảy qua làng Hát Môn , nơi mà Hai Bà Trưng vì nước
tuẫn nạn”.
Chỉ biết, sông Hát là con sông của lịch sử gắn liền với cuộc khởi nghĩa của hai Bà Trưng. Trong sách “Thiên Nam Ngữ Lục”
viết ở thế kỉ 17 có câu:
Hát Môn có
thế dụng binh
Sông sâu làm
cứ, rừng xanh làm nhà. (Câu 1571 – 72)
Hát Môn tức là cưả Sông Hát,
dân gian gọi tắt là cửa Hát. Nơi có cuộc hội thề khởi nghĩa mùa xuân năm 40 Cn
của Hai Bà Trưng.
Còn từ thế kỉ 15, trên đường
hành quân từ Thanh Hóa ra bao vây Đông Đô, quan Tư đồ Trần Nguyên Hãn (năm
Bính ngọ 1426) dẫn hơn 100 chiến thuyền thủy quân theo dòng sông Hát ngược
lên ra cửa Hát “ rồi xuôi xuống đến bến Đông Đô đàu sông Lô (sông Hồng ngày
nay) phá được quân của tướng Minh là Vương Thông”. (Theo truyện Trần
Nguyên Hãn trong sách Đại Việt thông sử. Lê Quý Đôn). Như vây là con sông
Hát này chiếm vị thế quan trọng ở nội hạt xứ Đoài . Một địa danh lịch sử trong
chiến tranh giải phóng dân tộc gần 2000 năm. Vắng bóng sông Hát trong sách Địa
danh Lịch sử Việt Nam
cũng tức là quên đi một di tích lịch sử sáng chói của dân tộc.
2. Do đổi tên sông Hát thành
sông Đáy (Bởi kéo ngược địa danh “Cửa Đáy” của tỉnh Ninh Bình lên đến “Cửa
Hát” của tỉnh Sơn Tây), mà sông Đáy ở tỉnh Vĩnh Yên nghiễm nhiên trở thành
“Tiểu Đáy’, rồi lui xuống làm “Phó Đáy”.
Chí biết từ danh “Phó Đáy”
là không chuẩn về mặt ngữ ngôn học. Từ “Phó” là dùng để chỉ danh chức của cấp
hàm quan chức hành chính dưới chức “Chánh”, là người trực tiếp giúp việc (phó sứ đoàn, phó tổng, phó lý, phó Bí thư,
phó Chủ tịch, phó các phòng ban… ).
Có thể đang ở thời điểm này, ông Lotzer đang làm quan trị nhậm ở chức Công sữ
nên ông quan niệm “phó” là chức cấp dưới của ông cũng như chức “phó tổng” là chức
dưới của “chánh tổng”. Cũng tương tự như sông Đáy ở tỉnh Sơn Tây là sông “Đáy lớn”
(Đại Đáy) mà con sông Đáy của Vĩnh Yên
trở thành sông “Tiểu Đáy” (Phạm Xuân Độ) để rồi ông Lotzer “giáng”. xuống
làm “Phó Đáy” (!). Ông có biết đâu là trong từ “phó” tiếng Việt, đứng trước
danh từ còn là để chỉ về nghề nghiệp thủ công (phó mộc, phó may…). Còn được dùng trong trường hợp là để “giao
cho”, để cho chịu trách nhiệm hoàn toàn (phó
thác). Thí dụ như 4 câu thơ sau đây của một bà huyện quan nào đó trong giai
thoại văn học “Phó cho con Nguyễn Thị Đào. Nước trong leo lẻo cắm sào đợi
ai, Chữ rằng “xuân bất tái lai”. Cho về kiếm tí kẻo mai nữa già” là cho một
quả phụ được tự ý đi “bước nữa”. Từ này không dùng với đất đai sông núi, là những
vật thể “tĩnh”. Thí dụ Núi Sáng, thường gọi là Sáng Sơn, là ngọn núi ở huyện
Sông Lô, mà không bao giờ có núi “Phó Sáng” cả hoặc sông Lô là “Phó Lô”…. từ
tiêng Việt đã gọi là “Đáy” ví như đáy bể, đáy sông, đáy chum, đáy nồi ….thì còn
có gì dưới nữa để mà có “phó”. Ông Lotzer khi nghĩ ra từ “phó” này, hẳn là chưa
ở Việt Nam nhiều, nên ngài công sứ chưa được “sõi” ngôn ngữ tiếng Việt.
Đế sửa chữa lại, sách “Địa chí Vĩnh Phúc”, hoàn thành năm
2012, do Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc chủ trì, nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn
hành, đã khôi phục lại địa danh “Sông Đáy” có trong truyền thống như sau:
“Sông Đáy: dài 41,5 km, chảy vào địa phận Vĩnh Phúc từ xã Quang Sơn
(huyện Lập Thạch) ở bờ phải và xã Yên Dương (huyện Tam Đảo) ở bờ trái, chảy vào
huyện Lập Thạch và huyện Tam Đảo,Vĩnh Tường, rồi đổ vào sông Lô, giữa xã Sơn
Đông (huyện Lập Thạch) và xã Việt Xuân (huyện Vĩnh Tường)”. (Xem trang 23)
Đó là thưc tại con sông Đáy
ngày nay của tỉnh Vĩnh Phúc.
Tháng 9 năm 2014.
Rất thích phong cách làm việc của tác giả. Nói có sách mách có chứng. khi đưa ra dữ kiện gì thì nguồn gốc phải rõ để người đọc... có thể đối chứng. Tôi không thích kiểu viết bài của nhiều nhà nghiên cứu bây giờ, đại khái như: theo truyền thuyết thì..., theo sách xưa thì... vậy truyền thuyết là truyền thuyết của vùng nào???; sách xưa là sách xưa nào? Phải ghi rõ nguồn sách, nguyên bản chữ Hán, hình ảnh... Như thế mới gọi là nghiên cứu khoa học đích thực. Mong tách giả ngày càng đóng góp thêm nhiều bài nghiên cứu hay hơn nữa.
Trả lờiXóaQuá tuyệt vời. Bây giờ mình mới hiểu. Xin cảm ơn tác giả rất nhiều.
Trả lờiXóaThôi các bác đừng vẽ vời nữa, hãy cứ để nó là sông Phó Đáy đi. Nhìn trên bản đồ thì dòng chảy của sông Phó Đáy (Tuyên Quang) cũng là thượng nguồn của sông Đáy (Hà Nam) rồi còn gì.
Trả lờiXóaÔng tướng này lắm chuyện, vẽ vời, sông nhỏ thì là phó là đúng rồi, thích thì ông Vĩnh Phúc với Tuyên Quang cùng nhau đổi thành sông Đại Đáy đi :D
Trả lờiXóaXin chan thanh cam on tac gia!
Trả lờiXóa