Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

LÊ ĐỨC TOẢN

LÊ ĐỨC TOẢN
黎 德 纘
(1452 – 1509)
Một vị trung thần không thờ hai vua.
              LÊ KIM THUYÊN

Lời cẩn án.
Lê Đức Toản là nhân vật của thế kỉ XV. Ông quê quán tại xã Sơn Đông , huyện Lập Thạch, phủ Tam Đái thừa tuyên Sơn Tây. Nay là thôn Quan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong các sách địa chí cổ, cụ thể như “Lịch triều hiến chương loại chí”, của tác giả Phan Huy Chú, phần “Nhân vật chí” và sau đó là bộ “Đại Nam nhất thống chí”do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn-mục Nhân vật tỉnh Sơn Tây, có chép sự trạng về 2 ông Lê Đức Toản cùng một quê quán như sau:
- Một ông Lê Đức Toản tử tiết trong vụ 2 vua Uy Mục Đế và Tương Dực Đế, anh em tàn sát nhau để tranh ngôi vua năm Kỉ tị (1509). Được phong là tiết nghĩa.
- Một ông Lê Đức Toản vì không theo phò nhà Mạc, khi Mạc Đăng Dung thay ngôi nhà Lê năm 1527, được phong là tiết nghĩa.
Vậy là chỉ có một ông Lê Đức Toản lại có 2 nguồn thông tin lịch sử khác nhau, do sử sách triều đình chép khác nhau, khiến đến nay vẫn có sự nhầm lẫn.
Bài viết dưới đây là để làm sáng tỏ thông tin đó.
*
Đọc sách Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên. Bản khắc in năm Chính Hòa 18 (1697), thấy có ghi về khoa thi năm Giáp thìn niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời vua Lê Thánh Tông như sau: “Tháng 3……Thi đình, đề văn sách hỏi về nhà Triệu Tống dùng Nho. Cho bọn Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Giác, Mai Duy Tinh ba người đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Ngô Văn Phòng 16 người  đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Chu Đình Bảo 25 người đỗ đồng tiến sĩ xuuất thân. (Bản dịch tập 2, trang 489. Nhà xuất bản Khoa học xã hôi. Hà Nội 1993).
Về khoa bảng, sách còn ghi tiếp: “Mùa thu tháng 8,……..Ngày 15 dựng bia có bài ký ghi tên các tiến sĩ từ khoa Nhâm tuất năm Đại Bảo thứ 3 (1442. LKT) vua Thái Tông triều ta đến nay…. (tiếp là các khoa) khoa Mậu Thìn năm Thái Hòa thứ 6 triều Nhân Tông (1448), Khoa Quý mùi năm Quang Thuận thứ 4 (1463), khoa Bính tuất năm thứ 7(1466), khoa Kỷ sửu năm thứ 10 (1469), khoa Nhâm thìn năm Hồng Đức thứ 3 (1472), khoa Ất mùi năm thứ 6 (1475), khoa Mậu tuất năm thứ 9 (1478), khoa Tân sửu năm thứ 12 (1481) đến khoa Giáp thìn năm nay (1484) khắc vào bia đá”. (sđd  trang 491- 492). Cộng là 9 khoa, 9 bia. Song tiếc rằng  số các bia dựng lần này, đã thất lạc mất 3 bia là các bia khoa Kỷ sửu năm Quang Thuận, khoa Nhâm thín đời Hồng Đức và khoa Giáp thìn (1484), là khoa ông Lê Đức Toản thi đỗ.
Theo bản sách “Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục” 鼎契大越歷朝登科綠 (Bản VHv. 2140 tư liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội)  thì danh sách ông Đức Toản thi đỗ thứ 5 trong số 16 vị cùng bảng đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân. Nguyên thư ghi:
Lê Đức Toản. Lập Thạch Sơn Đông nhân. Sĩ chí Đô Ngự sử. Khiết chi Thúc”.黎德纘立石山東人仕至都御史潔之叔 Nghĩa là : Lê Đức Toản Người xã Sơn Đông huyện Lập Thạch. Làm quan đến chức Đô Ngự sử. Là chú của Lê Khiết.
Lê Khiết cũng đỗ tiến sĩ dưới thời Hồng Đức (1470 – 1497). Cuối cùng là dòng “viết đài”, có chữ “Tiết nghĩa” 節義, xác nhận ông là công thần tử tiết vì việc nước.
Lại xem danh sách ông trong bia Văn chỉ làng Quan Tử (nay đặt trong đên thờ nhà giáo Đỗ Khắc Chung 杜克終) có tên “Tiên hiền liệt vị” 先賢列位 lập năm Mậu dần đời vua Tự Đức (1878) ghi chép danh sách 12 vị thi đỗ tiến sĩ dưới triều Lê sơ và triều Mạc của làng này thì tên ông đứng thứ 4 ở hàng trên như sau: “Đô Ngự sử Lê  tướng công, tự Đức Toản. Giáp thìn khoa. Đệ  nhị giáp tiến sĩ” 都御史黎相公字德纘甲辰科第二甲進士.
(xem thác bản Viện nghiên cứu Hán nôm Hà Nội No. 15460).    
Danh sách trên tấm bia này trùng lập với danh sách chép trong gia phả họ Lê “Lê tộc công phả” 黎族公譜 thôn Quan Tử : “Tiên tổ Lê tướng công tự Đức Toản. Giáp thìn khoa Đệ nhị giáp tiến sĩ, sĩ chí Đô Ngự sử” 先祖黎相公字德纘甲辰科第二甲進士仕至都御史 . Bằng những chứng cứ như vậy, đđể minh chứng ông Lê Đức Toản thuộc họ Lê thôn Quan Tử xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Thông tin trên đã phủ định thông tỉn trong một số trên các sách và báo chí, trong đó có trên mạng Google công bố rằng ông quê quán Lập Thạch, Đông Sơn, Thanh Hóa.
Về sự nghiệp, ông làm quan tới chức Đô Ngự sử, theo như thiên “Quan chức chí” trong bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” của tác giả Phan Huy Chú là chức quan đứng đầu Ngự sử đài dưới triều vua Lê Thánh Tông, cơ quan giữ phong hóa pháp độ, chức danh rất trọng. Ông lại là người cương trực, quyết đoán, xử sự rất công minh. Trải các triều vua Thánh Tông, Hiến Tông (1498 – 1504), Túc Tông (1504), Uy Mục Đế (1505 – 1509) ông một niềm giữ lòng liêm chính, vô tư, nên được các sĩ phu trọng vọng, nhân dân kính mến.   
Bia “Tiên hiền liệt vị” thờ trong đền Đỗ Khắc Chung
Ông Đức Toản còn là một công thần tiết nghĩa của triều Lê sơ.  Các sách Đăng khoa lục viết ở triều Lê hiện đang lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội cũng đều có ghi về ông hai chữ “tiết nghĩa” (hi sinh ví nước).
Vậy thì nội dung trường hợp “tiết nghia” ấy là như thế nào?
Trước hết hãy tìm đến sách “Đại Nam Nhất thống chí”, bộ địa chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn, biên soạn dưới triều vua Tự Đức, đựoc Viên Sử học Việt Nam tổ chức biên dịch và xuất bản năm 1971. Trong mục “Nhân vật tỉnh Sơn Tây” (xem bản dịch tập 4, trang 233 và 237, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hôi Hà Nội.), thấy có ghi về sự trạng của hai ông Lê Đức Toản.
1.Một ông là Lê Đức Toản: Người xã Sơn Đông huyện Lập Thạch, đõ tiến sĩ đời Hồng Đức, làm đến đô ngự sử, gặp lúc nhà Mạc tiếm ngôi, ông không khuất phục (Trang 233.Tôi gạch dưới, LKT).
Nguồn thông tin này  có lẽ xuất phát từ trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của tác giả Phan Huy Chú (thế kỉ 19) ở phần “Nhân vật chí” chép về ông Lê Đức Toản: “Ông người làng Sơn Đông huyện Lập Thạch, đỗ tiến sĩ khoa Giáp thìn (1484) đời Hồng Đức, làm quan đến Đô Ngự sử. Nhà Mạc tiếm ngôi, ông không làm quan, được khen là tiết nghĩa”.
Căn cứ vầo đó mà thông tin trên mạng Google mới cho rằng: “Năm Đinh Hợi 1527, Mạc Đăng Dung (莫登庸) đảo chính, dựng nhà Mạc, ông không phục tùng, bỏ quan ở ẩn, được người đương thời xưng tặng là tiết nghĩa.
Gần đây, trong sách “ Truyền thống hiếu học và hệ thống Văn miếu Văn từ Văn chỉ ở Vĩnh Phúc”, TS Nguyễn Hữu Mùi viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội cũng viết: “Ông làm quan đến chức Đô Ngự sử, không chịu hợp tác với nhà Mạc, về sau khi nhà Lê Trung Hưng, triều đình phong là tiết nghĩa”. (trang 63. Sở VHTT&DL Vĩnh Phúc xuất bản năm 2011).
Đó là một mạch thông tin suy xét ra là có từ cụ Phan Huy Chú (1782 – 1840), nghĩa là mới có từ thế kỉ 19.
2. Một ông là Lê Đức Toản: Người xã Sơn Đông huyện Lập Thạch đõ chánh tiến sĩ đời Hồng Đức làm đến đô ngự sử, ông thấy Uy Mục đế là vua vô đạo, ba lần dâng sớ cố can, bị bắt giam ở cửa Cảnh Môn, hơn 3 tháng không cho ăn uống, được người giám thủ lẻn lút cho ăn, nên không chết. Khi Tương Dực đế đem quân vào uy hiếp Kinh thành, bí mật cho người đến dụ có ý muốn dùng theo như việc cũ của Ngụy Trưng (bầy tôi nhà Đường, trước làm tôi thái tử nhà Đường là Kiến Thành, sau khi Đường Thế Dân giết Kiến Thành, Ngụy Trưng lại làm tôi Thế Dân giúp được nhiều việc. Người  bấy giờ khen Ngụy Trưng là bực hiền thần). Khi được tin Uy Mục đế chạy ra ngoài Kinh thành, ông bèn thắt cổ chết.
Nguồn thông tin này là theo Hà Nhâm Đại, tiến sĩ, thượng thư bộ Lễ đời vua Mạc Mậu Hợp (thế kỉ 16), người làng Bình Sơn huyện Lập Thạch (nay thuọc xã Như Thụy huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc). Ông Đại ghi chép về ông Toản trong tập “Thiên Nam thi tập” là tập thơ vịnh sử, có ghi rõ tiểu sử, hành trạng quê quán và một bài thơ ca ngợi về 10 vị Hoàng đế, 17 vị công thần và 2 vị văn thần triều Lê sơ. (Tư liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội. Bản A.315) lưu hành ở đời. Ông Toản là một trong số 17 công thần của sách đó. Thông tin có từ cuối thế kỉ 16.
Bài thơ vịnh sử ấy như sau:
諫封朝上九重天
夕繫城門絕可怜
義重身輕能伏節
傍人勿訝魏徵賢  (Xem tờ 38)
Phiên âm:
Gián phong triêu Thượng cửu trùng thiên.
Tịch hệ thành môn tuyệt khả linh.
Nghĩa trọng thân khinh năng phục tiết.
Bàng nhân vật nhạ Ngụy Trưng hiền.
Nghĩa:
Sáng ra dâng sớ dâng vua bạo.
Chiều nhốt cửa thành chẳng xót thương.
Nghĩa nặng sống khinh tròn một tiết.
Người đâu cứ tưởng Ngụy Trưng hiền.
[ Bài thơ này sách “”Đại Nam nhất thống chí” chép nhầm sang là của Đặng Minh Khiêm, người làng Mạo Phả huyện Sơn Vi nay là huyên Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, thi đỗ tiến sĩ khoa Đinh mùi đời vua Lê Thánh Tông (1487)]
Qua hai nguồn thông tin như thế thì rõ ràng ở cùng một quê là xã Sơn Đông huyện Lập Thạch lại có một ông Lê Đức Toản cùng thi đô Hoàng giáp, cùng làm quan chức Đô Ngự sử, cùng hi sinh vì việc nước lại có hai sự trạng khác nhau ư ?
Việc đó khiến chúng tôi mất nhiều năm để tìm hiểu tại quê hương xã Sơn Đông, và được tường sự thực:
Ngày nay, tại thôn Quan Tử xã Sơn Đông huyện Lập Thạch còn ngôi từ đường họ Lê thờ vị thủy tổ và 3 vị thi đỗ tiến sĩ dưới triều vua Lê Thánh Tông (1470 – 1497), trong đó có ông Lê Đức Toản.
Rất may là trong hòm đựng sắc phong của dòng họ còn lưu giữ được ba văn bản giúp trong công việc tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của ông Đức Toản được minh bạch.
1. Văn bản là hai cuốn gia phả. Một cuốn ghi chép thế thứ của ho Lê có tên là “LÊ TỘC CÔNG PHẢ”  黎族公譜 viết lại trên giấy bản học trò vào năm Kỉ mão triều Nguyễn (1939) nội dung ghi danh hiệu từ cụ “Thủy Tổ” trở xuống, tiếp đến danh hiệu ba vị tiến sĩ đời vua Lê Thánh Tông là:
- Lê Thúc Trẩn  黎叔縝. (Dòng họ đọc là “Chẩn”) .Thi đỗ TS khoa Bính tuất niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông (1466), làm quan tới chức Đô Ngự sử. (Xem bia văn miếu Hà Nội. Bia số 6).
- Lê Đức Toản  黎德纘.
- Lê Khiết  黎潔 .Thi đỗ TS khoa Canh tuất niên hiệu Hồng Đức đời vua Lê Thánh Tông (1490). Làm qua chức Tri huyện.
Cuốn thứ hai có tên là LÊ THỊ GIA PHẢ  黎氏家譜 là phần ghi chép về “Tiên nhân danh hiệu phần mộ, húy nhật, Đệ nhất chi”  先人名號墳諱墓
諱日     第一支 tiếp là hàng chữ ghi “ Hậu Lê Thánh Tông triều Đại thần nhất vị phả lục”  後黎聖尊朝大臣一位譜籙 là phần chép về sự tích ông Đức Toản. Về sự tích tiết nghiã của ông Đức Toản, nội dung đúng như ghi chép của Hà Nhậm Đại ở thế kỉ 16, và đoạn sách “Đại Nam nhất thống chí” dẫn ở trên.
Sách còn ghi tiếp, sau khi ông mất Giản Tu Công (sau là vua Lê Tương Dực: 1509 – 1516) sắm sửa lễ vật đến tế ông, cho mang thi hài về quê Sơn Đông mai táng, lại sai quần thần về tế ông. Phong là “Trung liệt tiết nghĩa đậi thần”  忠烈節義大臣, cho họ Lê ở Sơn Đông thờ tự. Đến đời vua Lê Thế Tông (1573 – 1600), dẹp xong nhà Mạc, tưởng lục công thần, thấy Lê Đức Toản là công thần tiết nghĩa triều Lê, mới tặng phong mĩ tự là “Hiển liệt hách thanh triệu mưu tá tích đại thần”  顯烈赫聲肇謀佐辟大臣, lại cho họ Lê tiếp tục thờ tự, cho được trong năm có hai ngày tế tự là 16 tháng 2 và 16 tháng 8, gọi là “xuân thu nhị kì”  春秋二期.  Văn bản này là chép lại vào năm Vĩnh Hựu thứ 6 đời vua Lê Ý Tông (1740) theo bản chính của tác giả Nguyễn Bính, Đông các đại học sĩ viên Hàn Lâm triều Lê Anh Tông  năm Hồng Phúc (1572 – 1573).

Ảnh Gia phả  họ Lê của trưởng tộc Lê Văn Long
.
Đó là thông tin có từ năm 1572, có thể có xuất xứ từ Hà Nhậm Đại.
Như vậy, theo văn bản này thì ông Đức Toản có hai lần triều đình ban sắc phong.
- Lần thứ nhất là phong “tiết nghĩa” của vua Lê Tương Dực, khi đưa thi hài ông về quê mai táng năm 1509.
- Lần thứ hai phong trong đời vua Lê Thế Tông (1573 – 1600), là khi đã dẹp yên Mạc Mậu Hợp năm 1592, nhà Lê trung hưng thu phục lại giang sơn, trừ dải đất Cao Bằng.
Nguyên văn trong phả lục chép như thế này: “Hậu Lê Thế Tông hoàng đế ký bình Mạc thị, nãi lục tích công thần, kiến Lê Đức Toản tại Lê triều tiết nghĩa, nãi tặng phong mỹ tự: Hiển liệt, Hách thanh, Triệu mưu, Tá tích đại thần.  Sắc khâm ban chuẩn hứa Lê tộc phụng tự. 後黎世尊皇帝既平莫氏乃綠蹟功臣見黎德纘在黎朝節義乃贈封美字顯烈赫聲肇謀佐辟大臣敕欽頒準許黎族奉祀. Do có thông tin này mà khiến người đọc rẽ lầm tưởng sang đợt phong “tuyên dương 13 người bầy tôi tử tiết là các ông Vũ Duệ, Ngô Hoán, Nguyễn Mẫn Đốc, Nguyễn Thiệu Tri, Đàm Thận Huy, Lê Tuấn Mậu, Nguyễn Duy Tường, Nguyễn Tự Cường, (hượng đẳng thần). Lê Vô Cương,  Nguyễn Hữu Nghiêm, Lại Kim Bảng, Nguyễn Thái bạt và Nghiêm Bá Ký (trung đẳng thần)”. (Xem “Việt sử thông giám cương mục”. Bản dịch, tập 15, trang 20. NXB Sử học Hà Nội, Nă m 1960).
Nội dung của lần ban phong này có 2 điểm rất đáng lưu ý là:
- Cho dựng từ đường ở trong làng theo thời tiết tế tự như thể lệ tế bách thần.
- Con cháu của những người này được bổ dụng những người có đức hạnh tốt , còn những người khác thì đều trừ giao dịch cho nhà họ.
Đó là điều đặc biệt danh giá, cao thượng và ân sủng “ơn vua lộc nước” dồi dào ở chốn làng quê khiến cho “trăm họ” phải nhìn vào ngưỡng mộ, vừa là tinh thần, vừa là vật chất, khiến cho đã có sự tranh chấp nhau. Điều đó đã xảy ra ở địa phương Sơn Đông.
Số là ở trong làng lúc đó có hai họ Lê “đông tính bất đồng tông”.
- Một họ LÊ do Lê Văn Liên là trưởng tộc.
- Một họ LÊ do Lê Văn Long làm trưởng tộc.
Mỗi khi triều đình có phong sắc, thì cả hai họ đều có bản khai đệ lên triều đình về sự tích vị Tiên tổ Lê Đức Toản của dòng họ mình.
Họ Lê của Lê Văn Liên khai sự tích chống lại nhà Mạc như nội dung có ở phần đuôi của gia phả. Có thể do bản khai này của dòng họ Lê Văn Liên đã đến tay nhà sử học Phan Huy Chú trong sưu tập “châu bản” mà họ Phan được có.
Họ Lê của Lê Văn Long khai sựu tích “không thờ hai vua” như nội dung phần đầu của gia phả. Bản này có xuất xứ từ di cảo của Hà Nhậm Đại.
Cả hai sự tích đều được triều đình chấp nhận ban sắc phong. Nhưng khi sắc về đến tỉnh đường Sơn Tây, thì cơ quan hàng tỉnh không biết cấp cho họ nào, vì ở xã Sơn Đòng chỉ có một ông Lê Đức Toản, đỗ tiến sĩ khoa Giáp thìn (1484) đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến Đô Ngự sử, có “tử tiết”, mà lại có hai họ đứng ra nhận. Do vậy các sắc phong từ cuối triều Lê sang thời Nguyễn đều “bị đắm” ở cấp tỉnh, không cấp về đến từ đường hai dòng họ. Vì cơ quan hàng tỉnh không xử được sự tranh chấp này, họ nào là đúng! Chỉ khi bàn đến đôi câu đối của tiến sĩ Hà Nhậm Đại có treo ở từ đường họ Lê của Lê Văn Long, thì mọi việc mới vỡ lẽ. Đôi câu đối ấy như sau:
進士高名慷愾都臺千古重
山東遺廟鏗轟何大一千吟
Đọc là:
Tiến sĩ cao danh khảng khái Đô đài thiên cổ trọng.
Sơn Đông di miếu khanh oanh Hà Đại nhất thiên ngâm.
Nghĩa:
Tiến sĩ danh cao khảng khái Đô đài nghìn năm trọng.
Sơn Đông miếu cũ vang lừng Hà Đại một chương ngâm.
Hà Đại tức Hà Nhậm Đại, người xã Bình Sơn, nay thuộc xã Như Thụy huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc, nhà ông chỉ cách Sơn Đông dưới 10 km đi xuống theo bờ tả sông Lô. Sau khi thi đỗ Tiến sĩ khoa Giáp tuất niên hiệu Sùng Khang 9 (1574) đời vua Mạc Mậu Hợp, làm quan đến chức thượng thư bộ Lễ (theo sách “Lịch triều đăng khoa bị khảo” quyển 2, tờ 52a bản VHv 2140, lưu trữ của viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội). Ông có về xã Sơn Đông, vào từ đường họ Lê của Lê Văn Long và có đôi câu đối viếng này. Sau đó con cháu dòng họ đã cho thợ khắc trên mộc bản treo trong từ đường. Đó là nguyên cớ để tìm ra họ Lê của Lê Đức Toản, và ngôi từ đường có niên đại từ sau việc ban phong của vua Lê Tương Dực năm 1509. Kết quả là đến năm 1924 (niên hiệu Khải Định năm thứ 9 – 1924) đạo sắc duy nhất và cũng là cuối cùng về đến dòng họ Lê của Lê Văn Long.
Ngày nay, ngôi từ đường của trưởng họ Lê Văn Long đã được xếp hạng di tích cấp Tỉnh – Thành phố, được tu sửa đẹp đẽ , và con cháu vẫn giữ tế tự “xuân thu nhị kì”. Đặc biệt đôi câu đối của Hà Nhậm Đại vẫn giữ được nguyên bản cổ. Còn họ Lê của Lê Văn Liên thì do kháng chiến, con cháu sơ tán đi ở khắp mọi nơi, nay chỉ còn một hộ gia đình là còn lại ở làng Quan Tử và cũng đã sáp nhập vào dòng họ của Lê Văn Long, thờ cúng chung.
Mộ ông Lê Đức Toản hiện vẫn còn, được các đời sau tu sửa chu đáo.
                   Sơn Đông tháng 3 năm 2013.
                                      LKT.

1 nhận xét: