Thứ Năm, 29 tháng 5, 2014

TƯỚNG CÔNG NGÔ MIỄN


TƯỚNG CÔNG NGÔ MIỄN
吳 勉 相 公
               Lê Kim Thuyên

Gọi ông với danh xưng là “tướng công’’ vì ông thi đỗ học vị cao, rồi lại làm quan to trong triều đình triều Hồ, với chức “hành khiển’’, ngang như cương vị tể tướng.
          Ông người thôn Mai (Xuân Mai), xã Xuân Hi, huyện Kim Hoa, xứ Kinh Bắc. Về sau đổi gọi là xã Xuân Phương, tổng Kim Anh, huyện Kim Anh phủ Đa Phúc tỉnh Bắc Ninh theo sách Đồng Khánh địa dư chí. Nay thuộc phường Phúc Thắng, thị xã Phúc Yên. Họ Ngô của Ngô Miễn là một vọng tộc ở vùng các làng xã xung quanh thị xã Phúc Yên. Truyện trong dòng  họ kể rằng: Ông sinh năm Tân hợi đời vua Trần Nghệ Tông (1371), có tên hiệu là Minh Đức.
          Tuy sinh ra trong một gia đình giàu có, quyền thế, nhưng từ thủa thiếu thời, ông vốn là người có tính cách khoan hoà, rộng rãi. Lại kiêm tư chất thông minh, thể mạo tuấn tú, nên rất được mọi người trong vùng nể trọng.
          Ở khoa thi Thái học sinh năm Quý dậu, niên hiệu Quang Thái năm thứ 06 đời vua Trần Thuận Tông (1393), ông thi đậu năm mới 22 tuổi. Cũng cần lưu ý là, ở khoa thi này sách “Đai Việt sử kí toàn thư” chép số lấy đỗ là 30 người gồm có các ông Hoàng Quán Chi, Lê Vị Tẩu, Mai Tú Phu và Đồng Thức…Các sách Đăng khoa lục đời sau cũng để khuyết danh tính 26 danh sách mà ông Ngô Miễn là một trong số đó. Thông tin này là từ gia phả họ Ngô ở Phúc Thắng.
          Do cuối triều Trần, trong nước có nhiều biến động, nên ông đã không ra làm quan. Trở về quê, ông mở trường dậy học, nhân dân các nơi biết ông học tài cao, lại có chí khí và lòng nhân đức đã đưa con em vào học trường ông rất đông. Vì thế mà uy tín của ông mỗi ngày một lan rộng khắp các vùng xung quanh.
          Đã vậy, ông lại đi chu du nhiều nơi trong nước. Đi đến đâu ông cũng gặp cảnh đói khổ cùng cực của nhân dân, nên khi trở về nhà, Ngô Miễn đã bàn bạc với cha mẹ và vợ đem tiền của và ruộng đất của nhà mình chia cho dân nghèo. Sau lại đem cả số ruộng 72 mẫu mua của bà chúa làng Khả Do ở xứ đầm Kì chia cho 4 thôn: Mai, Thượng, Triền và Bến. Mỗi thôn có 8 giáp thành 32 giáp, mỗi giáp một phần cày cấy và thả cá.
          Nhận thấy dân số ở quê nhà thôn Cựu, dân số ngày một đông, ruộng đất ít, trong khi đó miền đất phía nam huyện Thiên Trường Nam Định, đất đai thì mầu mỡ, rộng rãi mà chưa có khai phá, ông mới làm tờ tâu xin với nhà vua cho phép được khai phá. Trở về quê hương, ông xin cho được cắt cử một số hộ trong 10 họ ở Xuân Mai là các họ: Họ Ngô, họ Đỗ, họ Trần, họ Hoàng, họ Nguyễn, họ Phạm, họ Vũ, họ Đinh, họ Đào, họ Tạ  đi khai hoang lập nghiệp.
          Mới chỉ từ năm 1392 đến 1396, số đất đai khai khẩn đã là trên 200 mẫu. Cũng là miền giáp biển, thấy mặt trời lên đầu tiên trong ngày nên ông lấy hai chữ “Nhật Hi” đăt tên cho miền đất mới này để đối với Xuân Hi là nơi quê cũ.
          Khi triều Hồ lên thay triều Trần, ông mới ra làm quan, tới chức Hành khiển hữu tham tri chính sự, tức là ngang hàm tể tướng theo quan chế triều Trần.
          Tháng 5 năm Đinh Hợi (1407), ngày 11, cha con Hồ Quý Li bị giặc Minh bắt. Triều Hồ thất bại. Ngày 12, ông Ngô Miễn cùng với ông Trực trưởng là Kiều Biểu nhảy xưống nước tự vẫn để không sa vào tay giặc.
          Sau khi ông chết, bà vợ ông là Nguyễn Thị ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Chồng ta thờ chúa, một đời ăn lộc, ngày nay giữ tiết nghĩa mà chết, thế là chết xứng đáng, còn oán hận gì nữa? Nếu thiếp muốn sống cho qua ngày, chẳng lẽ lại không còn chỗ đến nữa hay sao? Nhưng đạo chồng, ơn vua, một chốc mà phụ bạc thì thiếp không nỡ nào! Chi bằng xin theo nhau!
          Nói xong, cũng nhảy xuống nước nước chết.
          Chép đến sự việc này, sử thần Ngô Sĩ Liên có lời bình rằng: Vợ Ngô Miễn là Nguyễn Thị không những chỉ chết vì nghĩa mà thôi, câu nói của bà cũng đủ để làm lời khuyên cho đời, cho nên chép ra đây để nêu gương.
          Viết trong sách “ Nam Ông mộng lục”, con của Hồ Quý Li là Hồ Nguyên Trừng cũng ca tụng tiết nghĩa của vợ chồng Ngô Miễn như sau:
- Than ôi!  chết vì tiết nghĩa là lí đương nhiên của kẻ sĩ đại phu, thế mà có người con thấy khó. Xưa nay, ít nghe có vị quan nào được như vậy. Ngô Miễn là đấng trượng phu chăng! Đến như Nguyễn thị, một người đàn bà mà lâm nguy vẫn nhận ra tiết lớn, biết chồng chết đáng chỗ không ân hận gì, lại còn coi trọng điều nghĩa, xem nhẹ cái sống, nhìn chết như về, có thể gọi là bậc hiền phu vậy. Trong số đàn bà ngu dại trên đời, những kẻ vì bực tức mà nhảy xuống nước chết, nhiều lắm. Đến như vì nghĩa bỏ mình, thì tất không dễ được ! Hạng người như Nguyễn Thị thật đáng ca ngợi thay.
Lại nói về Ngô Miễn, sau khi ông mất, thương tiếc ông, nhân dân ở hai nơi quê cũ, quê mới đều lập đền thờ ông. Hàng năm tổ chức lê hội vào ngày 09 tháng giêng âm lịch.
Đền Ngô tướng công ở làng Thi (Nhật Hi) xã Xuân Thuỷ huyện Xuân Trường Nam Định, nơi quê mới.
          Đền Ngô tướng công ở thôn Xuân Mai xã Xuân Phương, nơi quê sinh. Di tích xếp hạng cấp Quốc gia năm 1991.
          Ở đó còn đôi câu đối:
明德如聲恰與春芳留萬古
至成可格長邀天福萃斯民
          Minh Đức như thanh, kháp dữ Xuân Phương lưu vạn cổ
          Chí thành khả cách, trường yêu Thiên Phúc tuỵ tư dân.
          Nghĩa là:
          Minh Đức còn vang, cùng với Xuân Phương lưu vạn thuở
          Lòng thành để đó, mong sao “ngàn phúc” họp cho dân.

                 Lễ hội đền Ngô Miễn năm 2014.

            Chữ “ngàn phúc” là nghĩa cử chữ “Thiên Phúc” là địa danh mới ở đất Thiên Trường.
Câu 02.
功則祀之今亦古
德其盛矣址而南
Công tắc tự chi kim diệc cổ
Đức kì thịnh hĩ chỉ nam thiên.
Công với cúng thờ xưa nay vậy
Đức hiền lắm lắm đất phương Nam.
Câu đối viết về công lao của ông được thờ cúng do khai khẩn ruộng đất ở phương nam, vùng Thiên Trường.
Câu 03.
千秋英氣洋如在
萬古芳名儼拓思
Thiên thu anh khí dương như tại
Vạn cổ phương danh nghiễm thác tư.
Nghìn năm khí tốt như bể cả
Vạn thuở danh thơm gửi lại sau.
Đều là để tôn vinh và nhớ ơn tướng công Ngô Miễn.
 Năm 1999, sở Văn Hóa Thông Tin &Thể Thao tỉnh Vĩnh Phúc xuất bản cuốn sách DANH NHÂN VĨNH PHÚC, nhưng do thời kì ấy những thông tin về Ngô Miễn chưa được kiểm chứng đầy đủ, nên tên ông chưa có đề danh trong sách. Nay chép nối vào cho đầy đủ về vị “Danh thần” (Người bề tôi có tiếng) của tỉnh.

Tháng 3 năm 2014.

Thứ Năm, 1 tháng 5, 2014

TÔ THẾ HUY



TÔ THẾ HUY

蘇 世 輝
 (1666    -   ?)

Lê Kim Thuyên
I. Quê quán.

Bia TS Văn miếu Hà Nội (Bia số 54 trong số 82 bia còn hiện nay) có bia danh là “ Chính Hòa thập bát niên Đinh sửu khoa Tiến sĩ đề danh ký” (Có thác bản No,1336). Có chép một danh sách là Tô Thế Huy, người thôn Bình Đắng, huyện Bạch Hạc.
Các sách “Đăng khoa lục” Việt Nam, chép không thống nhất về địa danh làng này. Như: Bình Đăng, Bằng Đắng. Đến sách “Đồng Khánh địa dư chí”, bộ sách địa chí cổ cuối cùng của triều Nguyễn Việt Nam chép là thôn Bình Đắng (平 墱) , tổng Đồng Phú, huyện Bạch Hạc, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Sơn Tây. Là thôn duy nhất trong số 12 xã thôn trực thuộc tổng. Sách “Địa chí tỉnh Vĩnh Yên” của Nha học chính tỉnh Vĩnh Yên biên soạn và ấn hành năm 1939 chép là xã Bình Trù, tổng  Đồng Phú là một địa danh mới.
Sách “Địa chí tỉnh Vĩnh Phúc”, nhà XBKHXH năm 2012 chép là thôn Bình Trù xã Cao Đại huyện Vĩnh Tường ngày nay.
Về họ Tô  - là một họ của Việt nam.
Thấy xuất hiện đầu tiên trong sử sách là Tô Lịch chép trong sách “Việt điên u linh” ở thế kỉ 14. (Năm 1329) là năm Khai Hựu thứ nhất đời vua Trần Hiến Tồng. Nguyên ủy là vị “thần sông” Tô, con sông nhánh chảy vào thành Đại La từ phía tây bắc, quấn quanh phía nam, ôm lấy thành Đại La, rồi lại chảy ra sông Cái, (Sông Hồng ngày nay).
Rồi đến thế kỷ 15, được chép lại trong sách “Lĩnh Nam chích quái” của Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Vê sau Tô Lịch được vua Lý Thái Tổ phong làm Thăng Long Thành hoàng đại vương năm 1010.
Họ Tô trong quốc gia Đại Việt, thấy có Tô Hiến Thành, danh thần đời vua Lý Anh tông (1138- 1175).
Họ Tô ở tỉnh Vĩnh Phúc, thấy có Tô Thế Huy.
Bình Đắng là một làng tọa lạc bên trái, bậc thềm sông cổ của đồng bằng châu thổ sông Hồng, đời xưa có địa danh là Phong Châu (峰 洲). Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên chép là Kinh đô của các vua Hùng, ở thôn Việt Trì xã Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc. Nay là khu Bến Gót phường Thánh Miếu, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.
Nơi về sau, trong sách “”Đại Nam quốc sử diễn ca” của Lê Ngô Cát ở thế kỉ 19 có câu:
Bà Trưng quê ở Châu Phong
Là một làng nông nghiệp thuần túy, của một huyện có học, và có phần văn nhã.

II. Đi thi và thi đỗ.

Tô Thế Huy thi đỗ tiến sĩ ở khoa Đinh sửu đời vua Lê Hi Tông, niên hiệu Chính Hòa thứ 18 ( năm 1697).
Về thời sự của khoa thi này, bài ký bia văn miếu (bia số 54) viết rằng: Mùa đông năm Đinh sửu niên hiệ Chính Hòa thứ 18, bủa lưới cầu hiền, mở trường thi tài kén kẻ sĩ. Bấy giờ các cống sĩ các nơi dồn về như mây hợp, số ứng thí tới 3000 người. Qua trường bốn, chọn được hạng ưu tú 10 người”.
Đây là viết về kì thi Hội.
Thi Hội là khoa thi của triều đình do bộ Lễ tổ chức 03 năm một lần vào các năm “Thìn, Tuất, Sửu, Mùi”.
Để đỗ được ở khoa thi này các cống cử phải qua 04 ngày thi, gọi là “Kỳ”.
- Kì nhất: Ngày thứ nhất thi “Nghĩa”, giải nghĩa các câu hổi về sách “Ngũ Kinh” gồm Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Xuân Thu. Cùng những câu hỏi về sách “Tứ Thư” gồm Đại học, Trung dung,Lluận ngữ, Mạnh Tử, đều là các sách giáo khoa thư của Nho học. Gọi chung là “Thi nghĩa- Thư nghĩa”.
Sau đó các bài thi được đem chấm, loại bỏ bớt các bài kém , rồi lập danh sách vào ngày thi thứ hai, gọi là trường nhì (Nhị trường).
- Kì nhị: Ngày thứ hai. Mõi cống sĩ phải làm một bài Chiếu, bài Chê, bài Biểu là các thể văn hành chính.
Sau đó lại thu quyển đem chấm, rồi chọn lọc lấy các bài cho vào trường ba. (tam trường).
- Kì tam: Ngày thứ ba, mỗi cống sĩ phải làm một bài thơ, một bài phú do ban giám khảo ra đề, hạn vận. Để thử tài ứng tác của từng thí sinh.
Rồi lại thu quyển đem bình chấm. Chọn lọc lấy số quyển đạt phân số điểm vào trường bốn, gọi là “tứ trường”.
- Kì tứ: Ngày thứ tư. Mỗi cống cử phải làm một bái văn sách, gọi là “sách vấn” trả lời, luận về thời sự, kế sách của người xưa.
Sau bốn lần đãi lọc như thế, mới chọn các bài có số điểm cao, xứng đáng cho vào thi Đình, thì được gọi là “trúng cách thi Hội”, mà chưa có học vị gì. Người đứng đầu danh sách gọi là “Hội nguyên”. Có 10 người “trúng cách” trong số 3000 người dự thi, tỉ lệ đạt là 1/300.
 Tháng 12 năm ấy tổ chức thi Đình, gọi là “Đình thí”. Ở kì thi này đích thân nhà vua ra đê bài, và cũng đích thân làm chủ khảo. Ngày thi tổ chức ở sân điện của nhà vua, nên còn gọi là “Đế Đình”. Đề bài “sách vấn” kì này hỏi về “môn học tâm linh của con người”.
Các quan trong hàng ngũ khảo quan thay nhau đứng đọc các quyển văn, bình điểm, nhà vua quyết định cuối cùng, rồi xếp loại cho đỗ. Lấy thứ tự từ các quyển có số điểm cao nhất, đến cuối cùng. Ở kì thi này theo quy chế, không loại bỏ quyển văn nào, người đã “trúng cách thi Hội” coi như đã cầm bằng tiến sĩ trong tay, chỉ chờ xếp thứ tự cao thấp mà thôi.
Có ba bậc xếp loại:
- Cao nhất là hàng Đệ Nhất giáp tiến sĩ cập đệ, có ba người gồm Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam danh, thường gọi là trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa.
- Thứ hai là hàng Đệ nhị giáp tiến sĩ, thường gọi là hoàng giáp, tức chính bảng (giáp bảng).
- Thứ ba là hàng Đệ tam giáp đồng tiến sĩ, tức là hàng phụ bảng (ất bảng).
Tất cả đều cho “xuất thân”, tức là được bổ nhiệm quan chức.

Văn bia đề danh tiến sĩ khoa Đinh Sửu niên hiệu Chính Hòa năm thứ 18 (1697)


Ông Tô Thế Huy thi đỗ danh sách thứ hai trong số 08 người ở hàng Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Khoa thi này không lấy đỗ hàng tiến sĩ cập đệ, chỉ có 02 người đỗ ở bảng giáp mà thôi.
(Xem bia số 54, thác bản No. 1336 viên nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội).
Năm này ông Tô Thế Huy ở tuổi 32, tức là đã ở độ tuổi đủ chín để vào đời “tam thập nhi lập”, so với độ tuổi của các tiến sĩ khác người Vĩnh Phúc như các ông Ngô Miễn, Nguyễn Quang Luân (22 tuổi), cha con ông Nguyễn Duy Thì (27 tuổi), Trần Doãn Hựu (27 tuổi) thì có muộn hơn nhưng do ông có một số năm làm chức quan Huấn đạo, là chức “học quan” ở cấp phủ, huyện, phẩm trật ở vào hàng “chánh cửu phẩm văn giai”), rồi mới ra thi.

III. Ảnh hưởng của Tô Thế Huy với quê hương.

Ở quê hương làng Bình Đắng trước Tô Thế Huy chưa có người thành đạt về Nho học. Điều này được minh chứng trong bài kí văn của tấm bia Hậu đình làng Bình Đắng tạo năm Minh Mệnh thứ 13 triều Nguyễn – 1831- (nay còn đặt trong sân nhà bà Nguyễn thị Nghệ, một vị dâu của họ Tô – vợ của Tô Thế Long) có đoạn đầu: ...我邑文獻之鄉英雄世出自蘇進士開科之後人才輩出道學顯行其文章位望足為天下之範模道統之傳從來遠矣. (Ngã ấp văn hiến chi hương, anh hùng thế xuất tự Tô tiến sĩ khai khoa chi hậu, nhân tài bối xuất, đạo học hiển hành kì văn chương vị vọng, túc vi thiên hạ pham mô, đạo thống chi truyền tòng lai viễn hĩ): Ấp Ta trở thành làng có văn chương và người hiền tài, đời xuất anh hùng từ sau khi họ Tô đỗ tiến sĩ. Người tài lũ lượt ra đời,, đạo học rõ ràng, văn chương có tiếng, đủ để cho thiên hạ lấy làm khuôn phép, mối chính của Nho học được truyền lại đến nay đã xa lắm vậy. (Thác bản No.14231).
Quả có vậy, sau ông,  làng Bình Đắng có 12 danh sách thi đỗ Hương tiến (Cử nhân triều Nguyễn) trong đó họ Tô đạt 10 danh sách, và 03 vi thi Hội trúng “tam trường” là các ông Tô Thế Đôn, Tô Thế Huân, Tô Thế Áng. Các vị đều àlà di duệ Tô Thế Huy.

IV. Xuất thân ra làm quan. Con đường họan lộ.

Ông làm quan ở cấp Bộ, chức Hữu thị lang ( tương đương chức thứ trưởng thứ 02), nhưng không thấy ghi ở bộ nào.
Tháng 6 năm Canh tí đời Vĩnh Thịnh  16 (1720), vua Lê Dụ tông ban cho ông và 03 người nữa tước “Hầu” (Công, hấu, bá, tử, nam) trong một kí ban ơn.
Năm Bảo Thái thứ 02 (1721), ông được cử giữ chức phó sứ đoàn sang nhà Thanh  tuế cống. Trở về, ông được tiến cử vào hầu trong phủ chuá Trịnh Cương (1709-1729), giữ chức quan Bồi tụng phủ đường (đặt năm Hoằng Định thứ 02 -1601- đời vua Lê Kính tông, dưới chức Tham tụng đứng đầu), thường một lúc có 3-4 viên đều giữ bản chức mà mang hàm để dự vào chính sự nơi phủ đường. Rồi lại thăng lên chức Tả thị lang bộ Lễ, tước Công: Cảo quận công.
Rồi đến năm Bảo Thái thứ 06 (1725) đời vua Lê Dụ tông, giữ chức tả thị lang bộ Công, tra khám những vụ kiện ở Công phiên, về các việc chế tạo, ban tứ (vật phẩm nhà vua ban xuống) thì đều chiếu theo điều lệ mà làm (Xây dựng, kĩ nghệ). Tháng 12 năm ấy bị truất xuống chức hữu thị lang. Về chức thì kém tả thị lang một bậc, nhưng vè phẩm hàm thì vẫn ở hàng “tòng tam phẩm”.
Nguyên nhân vì có nhiều viên quan trưng thu tiền thuế, đã tham nhũng ẩn lậu. Chuá Trịnh Cương biết việc ấy, mới sai các quan ở Công phiên tính toán lại, biết rõ được sự tình. Tuy nhiên, những người  này vẫn tự bào chữa một cách gượng gạo, đuối lí. Tô Thế Huy lấy tư cách là Tả thị lang bộ Công làm việc phúc thẩm. Ông không những không khép án, lại tha tội cho bọn chúng, đó là việc làm “thất suất” (nghĩa là kết án nhẹ kẻ phạm tội nặng). Triều thần dem ra xét xử lại bản án, đã tha tội cho bạn tham nhũng, nhưng còn Tô Thế Huy thì bị giáng chức vì xử không đúng về hình phạt.
Sau đó, ông lại được thăng làm tả thị lang bộ Lễ, vào hầu tòa Kinh diên. (Kinh diên gỉảng quan), nơi giảng nghĩa sách cho nhà vua trong nội điện, tùy theo từng việc mà dâng điều hay, bày điều dở và tra xét những việc tố cáo của các xã dân tùy thuộc nội điện.
Đến tháng 5 năm Nhâm tí (1732), Uy vương Trịnh Giang cùng một số đại thần ngấm ngầm bàn định phế vua Lê Duy Phường, để lập vua Lê Thần tông. Ông Thhế Huy lúc này đang làm việc trong tòa Kinh diên, họ mới tìm cách cô lập ông và nhà vua bằng cách nói vu cho ông làm bầy tôi giảng dụ (hầu giảng cho nhà vua) mà chỉ biết dựa dẫm phụ họa, không biết giúp đỡ vua về mặt đạo đức. Số là Tô Thế Huy là người thông hiểu về khoa “chiêm tinh” (phương pháp xem sao để suy đoán việc lành dữ của người – A stropge), nên mới thường dâng sách âm dương cho vua Duy Phường. Nên Trịnh Giang và một số triều thần cho răng muốn truất vua Duy Phường thì phải tìm cách loại bỏ Tô Thế Huy. Bởi vậy nên triều đình biếm chức ông cho ra làm quan ngoài, chức Thừa chính sứ ở Yên Quảng (Quảng Ninh ngày nay), phẩm trật ở vào hàng tòng tam phẩm.
Về việc này, sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” Của Quốc sử quan triều Nguyễn chép rõ: “ Tháng 05. Biếm chức Tô Thế Huy, tả thị lang bộ Lễ, làm thừa chính sứ ở Yên Quảng”.
Giải thích rõ: Lúc ấy, Thế Huy giữ việc ở Kinh Diên, họ bèn vu cho Thế Huy là làm bầy tôi giảng dụ vua mà chỉ dựa dẫm phụ họa, không biết giúp dỡ vua về mặt đạo đức, nên biếm chức Thế Huy. ( Quyển 37,tờ 24)
Về cuối đời, ông được về trí sĩ nơi quê nhà. Năm ấy ông đã ngoài 70 tuổi. Hai con trai của ông đều hiển đạt. Một người làm quan chánh Hiến sứ, một người làm qua phó Hiến sứ. Sau khi ông mất được tặng phong chức thượng thư bộ Công.
Có các đôi câu đối thờ ông ở nhà từ đường thờ ông:
Câu 01.
國忠臣家好子天下完人
文進士武郡公朝廷顯宦
Quốc trung thần, gia hiếu tử thiên hạ hoàn nhân
Văn tiến sĩ, võ quận công, triều đình hiển hoạn.
(Bề tôi trung của nước, con hiếu của gia đình, ông là người trọn vẹn trong thiên hạ
Văn đỗ tiến sĩ, võ tới quận công, là vị quan vinh hiển chốn triều đình)

Câu 02.
傺席十三年輔德渥心高得悅
使軺千萬里重朝安社弼如遼
Sế tịch thập tam niên, phụ đức ốc cao tâm đắc duyệt
Sứ dao thiên vạn lí, trùng triều an xã bật như liêu.
Câu đối vua Lê Hi tông ngự ban sau khi đi sứ về.
(Ngồi chiếu 13 năm, giúp việc đức thấm lòng được lên cao, vui hớn hở
Đi sứ nghìn vạn dặm, mấy triều yên ổn nhờ sự giúp đỡ từ ông)

Câu 03.
北底遺思當正在
南人宰是御書香
Bắc để di tư đương chính tại
Nam nhân tể thị ngự thư hương
Câu đối này do triều đình nhà Thanh tặng ông.
(Văn tự Bắc triều nhớ để lại chốn cung đình còn đó
Tể tướng người Nam thấy rõ nền nếp nhà Nho).

V. Thơ văn để lại.

Ông không chỉ người có tài học giỏi, thi đỗ cao, là vị quan cần mẫn mà còn là người có nhiều văn phẩm để lại cho đời. Có 03 tác phẩm nay còn lưu giữ được.
1. Bài kí văn bia 奉祀羅公生祠碑記 Phụng tự La công sinh từ bi kí  là bia sinh từ họ La ở xã Đức Thắng huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang.
2. Bài tựa viết cho sách 群賢賦集 Quần hiền phú tập vào năm Bảo Thái thứ 10 (1728). (Xem A.505 viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội).
3. Bài trướng mừng tiến sĩ Nguyễn Bá Lân thi đỗ  古都尚書官登進士賀集 Cổ Đô thượng thư quan đăng tiến sĩ hạ tập  chép trong sách 百僚詩文集. ( Xem  A. 421 viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội).

VI. Công trình sưu tập.

Thời về trí sĩ, ông có lập trong vườn nhà ở Bình Đắng một thư viện (Vân đài) lưu giữ các bản ngọc phả ở các đình đền miếu ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ, khi ông làm quan ở bộ Lễ với chức danh “Quản giám Bách thần tri điện Hùng lĩnh thiếu khanh”. Đây là công trình sưu tập lịch sử và văn hóa rất có giá trị. Về lưu trữ này, nay còn được ghi lại trong một số bia thần tích một số làng, sách Thần tích một số làng, cũng như trong một số sách Xã chí (kho AJ. Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội).
Ông mất ngày 24 tháng 4, (không rõ năm), dân thôn cúng giỗ tại đình. Còn ngôi nhà để sách thì Nguyễn Danh Phương trong một đêm cho quân dỡ về dựng “Quán Tiên”. Chừng khoảng  những năm đầu thế kỉ XX, khi vị trưởng họ Tô là Tô Thế Tân chết rồi, thấy nói con cháu đã đem Thần tích lên gửi ở đền Hùng xã Cổ Tích.
Di tích còn lại ở đầu thế kỉ XX bằng hiện vật là 04 đạo sắc triều Lê phong cho vị thần Lí Nhã Lang thờ ở đình Bình Đắng, do chính tay họ Tô sao lại của đình làng Chu Quyến Sơn Tây, lưu giữ ở đền Bình Đắng. Một cỗ kiệu, một con hạc thờ ở đình và 02 cái miệng giếng đá.
Đến năm 1937, thì con cháu lưu lạc nhiều nơi, ở làng chỉ còn có 04 đnh. Chỗ nền nhà của ông thành ruộng.
Thông tin theo kiểm kê của trường Viễn đông Bác cổ năm 1937. (AJ 1/30).

Sơn Đông. Tháng 03 năm 2014.

LÊ ĐỨC TOẢN

LÊ ĐỨC TOẢN
黎 德 纘
(1452 – 1509)
Một vị trung thần không thờ hai vua.
              LÊ KIM THUYÊN

Lời cẩn án.
Lê Đức Toản là nhân vật của thế kỉ XV. Ông quê quán tại xã Sơn Đông , huyện Lập Thạch, phủ Tam Đái thừa tuyên Sơn Tây. Nay là thôn Quan Tử, xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.
Trong các sách địa chí cổ, cụ thể như “Lịch triều hiến chương loại chí”, của tác giả Phan Huy Chú, phần “Nhân vật chí” và sau đó là bộ “Đại Nam nhất thống chí”do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn-mục Nhân vật tỉnh Sơn Tây, có chép sự trạng về 2 ông Lê Đức Toản cùng một quê quán như sau:
- Một ông Lê Đức Toản tử tiết trong vụ 2 vua Uy Mục Đế và Tương Dực Đế, anh em tàn sát nhau để tranh ngôi vua năm Kỉ tị (1509). Được phong là tiết nghĩa.
- Một ông Lê Đức Toản vì không theo phò nhà Mạc, khi Mạc Đăng Dung thay ngôi nhà Lê năm 1527, được phong là tiết nghĩa.
Vậy là chỉ có một ông Lê Đức Toản lại có 2 nguồn thông tin lịch sử khác nhau, do sử sách triều đình chép khác nhau, khiến đến nay vẫn có sự nhầm lẫn.
Bài viết dưới đây là để làm sáng tỏ thông tin đó.
*
Đọc sách Đại Việt sử ký toàn thư (Ngô Sĩ Liên. Bản khắc in năm Chính Hòa 18 (1697), thấy có ghi về khoa thi năm Giáp thìn niên hiệu Hồng Đức 15 (1484) đời vua Lê Thánh Tông như sau: “Tháng 3……Thi đình, đề văn sách hỏi về nhà Triệu Tống dùng Nho. Cho bọn Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Giác, Mai Duy Tinh ba người đỗ tiến sĩ cập đệ; bọn Ngô Văn Phòng 16 người  đỗ tiến sĩ xuất thân; bọn Chu Đình Bảo 25 người đỗ đồng tiến sĩ xuuất thân. (Bản dịch tập 2, trang 489. Nhà xuất bản Khoa học xã hôi. Hà Nội 1993).
Về khoa bảng, sách còn ghi tiếp: “Mùa thu tháng 8,……..Ngày 15 dựng bia có bài ký ghi tên các tiến sĩ từ khoa Nhâm tuất năm Đại Bảo thứ 3 (1442. LKT) vua Thái Tông triều ta đến nay…. (tiếp là các khoa) khoa Mậu Thìn năm Thái Hòa thứ 6 triều Nhân Tông (1448), Khoa Quý mùi năm Quang Thuận thứ 4 (1463), khoa Bính tuất năm thứ 7(1466), khoa Kỷ sửu năm thứ 10 (1469), khoa Nhâm thìn năm Hồng Đức thứ 3 (1472), khoa Ất mùi năm thứ 6 (1475), khoa Mậu tuất năm thứ 9 (1478), khoa Tân sửu năm thứ 12 (1481) đến khoa Giáp thìn năm nay (1484) khắc vào bia đá”. (sđd  trang 491- 492). Cộng là 9 khoa, 9 bia. Song tiếc rằng  số các bia dựng lần này, đã thất lạc mất 3 bia là các bia khoa Kỷ sửu năm Quang Thuận, khoa Nhâm thín đời Hồng Đức và khoa Giáp thìn (1484), là khoa ông Lê Đức Toản thi đỗ.
Theo bản sách “Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục” 鼎契大越歷朝登科綠 (Bản VHv. 2140 tư liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội)  thì danh sách ông Đức Toản thi đỗ thứ 5 trong số 16 vị cùng bảng đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân. Nguyên thư ghi:
Lê Đức Toản. Lập Thạch Sơn Đông nhân. Sĩ chí Đô Ngự sử. Khiết chi Thúc”.黎德纘立石山東人仕至都御史潔之叔 Nghĩa là : Lê Đức Toản Người xã Sơn Đông huyện Lập Thạch. Làm quan đến chức Đô Ngự sử. Là chú của Lê Khiết.
Lê Khiết cũng đỗ tiến sĩ dưới thời Hồng Đức (1470 – 1497). Cuối cùng là dòng “viết đài”, có chữ “Tiết nghĩa” 節義, xác nhận ông là công thần tử tiết vì việc nước.
Lại xem danh sách ông trong bia Văn chỉ làng Quan Tử (nay đặt trong đên thờ nhà giáo Đỗ Khắc Chung 杜克終) có tên “Tiên hiền liệt vị” 先賢列位 lập năm Mậu dần đời vua Tự Đức (1878) ghi chép danh sách 12 vị thi đỗ tiến sĩ dưới triều Lê sơ và triều Mạc của làng này thì tên ông đứng thứ 4 ở hàng trên như sau: “Đô Ngự sử Lê  tướng công, tự Đức Toản. Giáp thìn khoa. Đệ  nhị giáp tiến sĩ” 都御史黎相公字德纘甲辰科第二甲進士.
(xem thác bản Viện nghiên cứu Hán nôm Hà Nội No. 15460).    
Danh sách trên tấm bia này trùng lập với danh sách chép trong gia phả họ Lê “Lê tộc công phả” 黎族公譜 thôn Quan Tử : “Tiên tổ Lê tướng công tự Đức Toản. Giáp thìn khoa Đệ nhị giáp tiến sĩ, sĩ chí Đô Ngự sử” 先祖黎相公字德纘甲辰科第二甲進士仕至都御史 . Bằng những chứng cứ như vậy, đđể minh chứng ông Lê Đức Toản thuộc họ Lê thôn Quan Tử xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Thông tin trên đã phủ định thông tỉn trong một số trên các sách và báo chí, trong đó có trên mạng Google công bố rằng ông quê quán Lập Thạch, Đông Sơn, Thanh Hóa.
Về sự nghiệp, ông làm quan tới chức Đô Ngự sử, theo như thiên “Quan chức chí” trong bộ “Lịch triều hiến chương loại chí” của tác giả Phan Huy Chú là chức quan đứng đầu Ngự sử đài dưới triều vua Lê Thánh Tông, cơ quan giữ phong hóa pháp độ, chức danh rất trọng. Ông lại là người cương trực, quyết đoán, xử sự rất công minh. Trải các triều vua Thánh Tông, Hiến Tông (1498 – 1504), Túc Tông (1504), Uy Mục Đế (1505 – 1509) ông một niềm giữ lòng liêm chính, vô tư, nên được các sĩ phu trọng vọng, nhân dân kính mến.   
Bia “Tiên hiền liệt vị” thờ trong đền Đỗ Khắc Chung
Ông Đức Toản còn là một công thần tiết nghĩa của triều Lê sơ.  Các sách Đăng khoa lục viết ở triều Lê hiện đang lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội cũng đều có ghi về ông hai chữ “tiết nghĩa” (hi sinh ví nước).
Vậy thì nội dung trường hợp “tiết nghia” ấy là như thế nào?
Trước hết hãy tìm đến sách “Đại Nam Nhất thống chí”, bộ địa chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn, biên soạn dưới triều vua Tự Đức, đựoc Viên Sử học Việt Nam tổ chức biên dịch và xuất bản năm 1971. Trong mục “Nhân vật tỉnh Sơn Tây” (xem bản dịch tập 4, trang 233 và 237, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hôi Hà Nội.), thấy có ghi về sự trạng của hai ông Lê Đức Toản.
1.Một ông là Lê Đức Toản: Người xã Sơn Đông huyện Lập Thạch, đõ tiến sĩ đời Hồng Đức, làm đến đô ngự sử, gặp lúc nhà Mạc tiếm ngôi, ông không khuất phục (Trang 233.Tôi gạch dưới, LKT).
Nguồn thông tin này  có lẽ xuất phát từ trong sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của tác giả Phan Huy Chú (thế kỉ 19) ở phần “Nhân vật chí” chép về ông Lê Đức Toản: “Ông người làng Sơn Đông huyện Lập Thạch, đỗ tiến sĩ khoa Giáp thìn (1484) đời Hồng Đức, làm quan đến Đô Ngự sử. Nhà Mạc tiếm ngôi, ông không làm quan, được khen là tiết nghĩa”.
Căn cứ vầo đó mà thông tin trên mạng Google mới cho rằng: “Năm Đinh Hợi 1527, Mạc Đăng Dung (莫登庸) đảo chính, dựng nhà Mạc, ông không phục tùng, bỏ quan ở ẩn, được người đương thời xưng tặng là tiết nghĩa.
Gần đây, trong sách “ Truyền thống hiếu học và hệ thống Văn miếu Văn từ Văn chỉ ở Vĩnh Phúc”, TS Nguyễn Hữu Mùi viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội cũng viết: “Ông làm quan đến chức Đô Ngự sử, không chịu hợp tác với nhà Mạc, về sau khi nhà Lê Trung Hưng, triều đình phong là tiết nghĩa”. (trang 63. Sở VHTT&DL Vĩnh Phúc xuất bản năm 2011).
Đó là một mạch thông tin suy xét ra là có từ cụ Phan Huy Chú (1782 – 1840), nghĩa là mới có từ thế kỉ 19.
2. Một ông là Lê Đức Toản: Người xã Sơn Đông huyện Lập Thạch đõ chánh tiến sĩ đời Hồng Đức làm đến đô ngự sử, ông thấy Uy Mục đế là vua vô đạo, ba lần dâng sớ cố can, bị bắt giam ở cửa Cảnh Môn, hơn 3 tháng không cho ăn uống, được người giám thủ lẻn lút cho ăn, nên không chết. Khi Tương Dực đế đem quân vào uy hiếp Kinh thành, bí mật cho người đến dụ có ý muốn dùng theo như việc cũ của Ngụy Trưng (bầy tôi nhà Đường, trước làm tôi thái tử nhà Đường là Kiến Thành, sau khi Đường Thế Dân giết Kiến Thành, Ngụy Trưng lại làm tôi Thế Dân giúp được nhiều việc. Người  bấy giờ khen Ngụy Trưng là bực hiền thần). Khi được tin Uy Mục đế chạy ra ngoài Kinh thành, ông bèn thắt cổ chết.
Nguồn thông tin này là theo Hà Nhâm Đại, tiến sĩ, thượng thư bộ Lễ đời vua Mạc Mậu Hợp (thế kỉ 16), người làng Bình Sơn huyện Lập Thạch (nay thuọc xã Như Thụy huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc). Ông Đại ghi chép về ông Toản trong tập “Thiên Nam thi tập” là tập thơ vịnh sử, có ghi rõ tiểu sử, hành trạng quê quán và một bài thơ ca ngợi về 10 vị Hoàng đế, 17 vị công thần và 2 vị văn thần triều Lê sơ. (Tư liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội. Bản A.315) lưu hành ở đời. Ông Toản là một trong số 17 công thần của sách đó. Thông tin có từ cuối thế kỉ 16.
Bài thơ vịnh sử ấy như sau:
諫封朝上九重天
夕繫城門絕可怜
義重身輕能伏節
傍人勿訝魏徵賢  (Xem tờ 38)
Phiên âm:
Gián phong triêu Thượng cửu trùng thiên.
Tịch hệ thành môn tuyệt khả linh.
Nghĩa trọng thân khinh năng phục tiết.
Bàng nhân vật nhạ Ngụy Trưng hiền.
Nghĩa:
Sáng ra dâng sớ dâng vua bạo.
Chiều nhốt cửa thành chẳng xót thương.
Nghĩa nặng sống khinh tròn một tiết.
Người đâu cứ tưởng Ngụy Trưng hiền.
[ Bài thơ này sách “”Đại Nam nhất thống chí” chép nhầm sang là của Đặng Minh Khiêm, người làng Mạo Phả huyện Sơn Vi nay là huyên Lâm Thao tỉnh Phú Thọ, thi đỗ tiến sĩ khoa Đinh mùi đời vua Lê Thánh Tông (1487)]
Qua hai nguồn thông tin như thế thì rõ ràng ở cùng một quê là xã Sơn Đông huyện Lập Thạch lại có một ông Lê Đức Toản cùng thi đô Hoàng giáp, cùng làm quan chức Đô Ngự sử, cùng hi sinh vì việc nước lại có hai sự trạng khác nhau ư ?
Việc đó khiến chúng tôi mất nhiều năm để tìm hiểu tại quê hương xã Sơn Đông, và được tường sự thực:
Ngày nay, tại thôn Quan Tử xã Sơn Đông huyện Lập Thạch còn ngôi từ đường họ Lê thờ vị thủy tổ và 3 vị thi đỗ tiến sĩ dưới triều vua Lê Thánh Tông (1470 – 1497), trong đó có ông Lê Đức Toản.
Rất may là trong hòm đựng sắc phong của dòng họ còn lưu giữ được ba văn bản giúp trong công việc tìm hiểu về thân thế và sự nghiệp của ông Đức Toản được minh bạch.
1. Văn bản là hai cuốn gia phả. Một cuốn ghi chép thế thứ của ho Lê có tên là “LÊ TỘC CÔNG PHẢ”  黎族公譜 viết lại trên giấy bản học trò vào năm Kỉ mão triều Nguyễn (1939) nội dung ghi danh hiệu từ cụ “Thủy Tổ” trở xuống, tiếp đến danh hiệu ba vị tiến sĩ đời vua Lê Thánh Tông là:
- Lê Thúc Trẩn  黎叔縝. (Dòng họ đọc là “Chẩn”) .Thi đỗ TS khoa Bính tuất niên hiệu Quang Thuận đời vua Lê Thánh Tông (1466), làm quan tới chức Đô Ngự sử. (Xem bia văn miếu Hà Nội. Bia số 6).
- Lê Đức Toản  黎德纘.
- Lê Khiết  黎潔 .Thi đỗ TS khoa Canh tuất niên hiệu Hồng Đức đời vua Lê Thánh Tông (1490). Làm qua chức Tri huyện.
Cuốn thứ hai có tên là LÊ THỊ GIA PHẢ  黎氏家譜 là phần ghi chép về “Tiên nhân danh hiệu phần mộ, húy nhật, Đệ nhất chi”  先人名號墳諱墓
諱日     第一支 tiếp là hàng chữ ghi “ Hậu Lê Thánh Tông triều Đại thần nhất vị phả lục”  後黎聖尊朝大臣一位譜籙 là phần chép về sự tích ông Đức Toản. Về sự tích tiết nghiã của ông Đức Toản, nội dung đúng như ghi chép của Hà Nhậm Đại ở thế kỉ 16, và đoạn sách “Đại Nam nhất thống chí” dẫn ở trên.
Sách còn ghi tiếp, sau khi ông mất Giản Tu Công (sau là vua Lê Tương Dực: 1509 – 1516) sắm sửa lễ vật đến tế ông, cho mang thi hài về quê Sơn Đông mai táng, lại sai quần thần về tế ông. Phong là “Trung liệt tiết nghĩa đậi thần”  忠烈節義大臣, cho họ Lê ở Sơn Đông thờ tự. Đến đời vua Lê Thế Tông (1573 – 1600), dẹp xong nhà Mạc, tưởng lục công thần, thấy Lê Đức Toản là công thần tiết nghĩa triều Lê, mới tặng phong mĩ tự là “Hiển liệt hách thanh triệu mưu tá tích đại thần”  顯烈赫聲肇謀佐辟大臣, lại cho họ Lê tiếp tục thờ tự, cho được trong năm có hai ngày tế tự là 16 tháng 2 và 16 tháng 8, gọi là “xuân thu nhị kì”  春秋二期.  Văn bản này là chép lại vào năm Vĩnh Hựu thứ 6 đời vua Lê Ý Tông (1740) theo bản chính của tác giả Nguyễn Bính, Đông các đại học sĩ viên Hàn Lâm triều Lê Anh Tông  năm Hồng Phúc (1572 – 1573).

Ảnh Gia phả  họ Lê của trưởng tộc Lê Văn Long
.
Đó là thông tin có từ năm 1572, có thể có xuất xứ từ Hà Nhậm Đại.
Như vậy, theo văn bản này thì ông Đức Toản có hai lần triều đình ban sắc phong.
- Lần thứ nhất là phong “tiết nghĩa” của vua Lê Tương Dực, khi đưa thi hài ông về quê mai táng năm 1509.
- Lần thứ hai phong trong đời vua Lê Thế Tông (1573 – 1600), là khi đã dẹp yên Mạc Mậu Hợp năm 1592, nhà Lê trung hưng thu phục lại giang sơn, trừ dải đất Cao Bằng.
Nguyên văn trong phả lục chép như thế này: “Hậu Lê Thế Tông hoàng đế ký bình Mạc thị, nãi lục tích công thần, kiến Lê Đức Toản tại Lê triều tiết nghĩa, nãi tặng phong mỹ tự: Hiển liệt, Hách thanh, Triệu mưu, Tá tích đại thần.  Sắc khâm ban chuẩn hứa Lê tộc phụng tự. 後黎世尊皇帝既平莫氏乃綠蹟功臣見黎德纘在黎朝節義乃贈封美字顯烈赫聲肇謀佐辟大臣敕欽頒準許黎族奉祀. Do có thông tin này mà khiến người đọc rẽ lầm tưởng sang đợt phong “tuyên dương 13 người bầy tôi tử tiết là các ông Vũ Duệ, Ngô Hoán, Nguyễn Mẫn Đốc, Nguyễn Thiệu Tri, Đàm Thận Huy, Lê Tuấn Mậu, Nguyễn Duy Tường, Nguyễn Tự Cường, (hượng đẳng thần). Lê Vô Cương,  Nguyễn Hữu Nghiêm, Lại Kim Bảng, Nguyễn Thái bạt và Nghiêm Bá Ký (trung đẳng thần)”. (Xem “Việt sử thông giám cương mục”. Bản dịch, tập 15, trang 20. NXB Sử học Hà Nội, Nă m 1960).
Nội dung của lần ban phong này có 2 điểm rất đáng lưu ý là:
- Cho dựng từ đường ở trong làng theo thời tiết tế tự như thể lệ tế bách thần.
- Con cháu của những người này được bổ dụng những người có đức hạnh tốt , còn những người khác thì đều trừ giao dịch cho nhà họ.
Đó là điều đặc biệt danh giá, cao thượng và ân sủng “ơn vua lộc nước” dồi dào ở chốn làng quê khiến cho “trăm họ” phải nhìn vào ngưỡng mộ, vừa là tinh thần, vừa là vật chất, khiến cho đã có sự tranh chấp nhau. Điều đó đã xảy ra ở địa phương Sơn Đông.
Số là ở trong làng lúc đó có hai họ Lê “đông tính bất đồng tông”.
- Một họ LÊ do Lê Văn Liên là trưởng tộc.
- Một họ LÊ do Lê Văn Long làm trưởng tộc.
Mỗi khi triều đình có phong sắc, thì cả hai họ đều có bản khai đệ lên triều đình về sự tích vị Tiên tổ Lê Đức Toản của dòng họ mình.
Họ Lê của Lê Văn Liên khai sự tích chống lại nhà Mạc như nội dung có ở phần đuôi của gia phả. Có thể do bản khai này của dòng họ Lê Văn Liên đã đến tay nhà sử học Phan Huy Chú trong sưu tập “châu bản” mà họ Phan được có.
Họ Lê của Lê Văn Long khai sựu tích “không thờ hai vua” như nội dung phần đầu của gia phả. Bản này có xuất xứ từ di cảo của Hà Nhậm Đại.
Cả hai sự tích đều được triều đình chấp nhận ban sắc phong. Nhưng khi sắc về đến tỉnh đường Sơn Tây, thì cơ quan hàng tỉnh không biết cấp cho họ nào, vì ở xã Sơn Đòng chỉ có một ông Lê Đức Toản, đỗ tiến sĩ khoa Giáp thìn (1484) đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến Đô Ngự sử, có “tử tiết”, mà lại có hai họ đứng ra nhận. Do vậy các sắc phong từ cuối triều Lê sang thời Nguyễn đều “bị đắm” ở cấp tỉnh, không cấp về đến từ đường hai dòng họ. Vì cơ quan hàng tỉnh không xử được sự tranh chấp này, họ nào là đúng! Chỉ khi bàn đến đôi câu đối của tiến sĩ Hà Nhậm Đại có treo ở từ đường họ Lê của Lê Văn Long, thì mọi việc mới vỡ lẽ. Đôi câu đối ấy như sau:
進士高名慷愾都臺千古重
山東遺廟鏗轟何大一千吟
Đọc là:
Tiến sĩ cao danh khảng khái Đô đài thiên cổ trọng.
Sơn Đông di miếu khanh oanh Hà Đại nhất thiên ngâm.
Nghĩa:
Tiến sĩ danh cao khảng khái Đô đài nghìn năm trọng.
Sơn Đông miếu cũ vang lừng Hà Đại một chương ngâm.
Hà Đại tức Hà Nhậm Đại, người xã Bình Sơn, nay thuộc xã Như Thụy huyện Sông Lô tỉnh Vĩnh Phúc, nhà ông chỉ cách Sơn Đông dưới 10 km đi xuống theo bờ tả sông Lô. Sau khi thi đỗ Tiến sĩ khoa Giáp tuất niên hiệu Sùng Khang 9 (1574) đời vua Mạc Mậu Hợp, làm quan đến chức thượng thư bộ Lễ (theo sách “Lịch triều đăng khoa bị khảo” quyển 2, tờ 52a bản VHv 2140, lưu trữ của viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội). Ông có về xã Sơn Đông, vào từ đường họ Lê của Lê Văn Long và có đôi câu đối viếng này. Sau đó con cháu dòng họ đã cho thợ khắc trên mộc bản treo trong từ đường. Đó là nguyên cớ để tìm ra họ Lê của Lê Đức Toản, và ngôi từ đường có niên đại từ sau việc ban phong của vua Lê Tương Dực năm 1509. Kết quả là đến năm 1924 (niên hiệu Khải Định năm thứ 9 – 1924) đạo sắc duy nhất và cũng là cuối cùng về đến dòng họ Lê của Lê Văn Long.
Ngày nay, ngôi từ đường của trưởng họ Lê Văn Long đã được xếp hạng di tích cấp Tỉnh – Thành phố, được tu sửa đẹp đẽ , và con cháu vẫn giữ tế tự “xuân thu nhị kì”. Đặc biệt đôi câu đối của Hà Nhậm Đại vẫn giữ được nguyên bản cổ. Còn họ Lê của Lê Văn Liên thì do kháng chiến, con cháu sơ tán đi ở khắp mọi nơi, nay chỉ còn một hộ gia đình là còn lại ở làng Quan Tử và cũng đã sáp nhập vào dòng họ của Lê Văn Long, thờ cúng chung.
Mộ ông Lê Đức Toản hiện vẫn còn, được các đời sau tu sửa chu đáo.
                   Sơn Đông tháng 3 năm 2013.
                                      LKT.