Thứ Tư, 9 tháng 7, 2014

ĐỀN CÔ TÂY THIÊN


ĐỀN CÔ TÂY THIÊN

Lê Kim Thuyên

          Qua ngôi đền Cậu, cứ thế tiếp tục cuộc hành trình thêm khoảng chừng 02 cây số đường núi nữa là tới ngôi đền có từ danh là “đền Cô”.
Cũng như ngôi đền Cậu, đền Cô xuất hiện từ bao giờ, chưa một ai dám đoán định. Và sao ngôi đền Cô lại toạ lạc ngay trên bờ khúc suối với cái tên đầy cởỉ mở “suối Giải oan” lại là một sự bí ẩn. Khúc suối cũng lại có tên nhà Phật “Bát Nhã tuyền” (suối Bát Nhã), tên một bộ kinh nhà Phật ( kinh Bát Nhã) nghĩa là “trí tuệ”. Theo nhà Phật, trí tuệ có hai loại hỗ trợ nhau và bổ sung cho nhau:
Văn tuệ: Nghĩa là nhờ nghe nhiều, học nhiều mà có trí tuệ ( sự hiểu biết thông minh linh lợi).
Tư tuệ: Nghĩa là nhờ suy nghĩ nhiều, thực hành nhiều, tu tập nhiều mà có trí tuệ. Ý nghĩa về sự trải nghiệm, thực hành.
Ngôi đền Cô xuất hiện như thế ở nơi có thể gọi là “ rừng sâu nước thẳm” hẳn như muốn nhắc nhở cõi thế gian điều gi trước khi lên trình nơi cửa Mẫu?
Phải chăng là rũ bỏ mọi ưu tư, phiền não, tranh cạnh nơi trần thế để về ngả vai vào lòng Mẹ mà yên hưởng sự yên tĩnh thư thái tâm hồn?
Bước chân đến đền Cô là kết thúc một hành trình lội suối mà ở thế kỉ 19 nhà thơ Cao Bá Quát từng vượt qua để lên Tây Thiên có câu miêu tả “ Cửu khúc hồi khê” ( chín khúc suối chảy về). Chín khúc suối ấy bắt đầu tính từ xã Hồ Sơn, nơi cửa ngõ rẽ vào Tây Thiên, Gồm có:
Suối Võng
Suối Cầu Tre        thuộc xã Hồ Sơn.
Suối Đầm Cả        Suối ở phía sau ngôi đền Đầm Cả, nay đang có biển lầm đề là Đền Trình, thuộc xã Tam Quan.
Suối Sơn Đình
Suối Chùa Rọ        Suối ở sau đền Thỏng.
Suối Đá Liền
Suối Đôi ( tức Suối Tối)
Suối Trường Sinh   và
Suối Giải Oan.       Đều thuộc xã Đại Đình.


Cũng như đền Cậu, ngôi đền Cô trong hệ thống Mẫu Tây Thiên là sự tích hợp văn hoá “âm – dương” trong hệ thông Mẫu Thần gắn với tín ngưỡng dân gian phồn thực của sự sinh nở. Đó là sự kết hợp hài hoà trong tâm linh, với tư duy triết học sơ khai phối cảnh với môi trưòng sinh thái. Để rồi có tâm thức dân gian, Cô là con nhà Giời toạ lạc ở đây để cùng cứu dân, giúp nước.
Ngày nay, ngôi đến được xây dựng lại khang trang, tôn nghiêm. và có tên là đền Cô Bé với nội dung thờ tự không còn giống như thuả ban đầu.
Trong đền có bức hoành phi 04 chữ    “Tứ Phủ Thánh Cô”        tức là các hàng cô thánh trong hệ Mẫu Tứ Phủ.
Có tất cả 12 Cô cho bồn phủ, là phủ Thượng Thiên, Phủ Thượng Ngàn (Nhạc phủ), phủ Thoải (Thoải Phủ), và phủ Địa (Địa Phủ) trong thiết chế về hàng “Cô” của hệ Mẫu Tứ Phủ. Đó là sự thờ cúng công đồng về hàng các Cô. Có tất cả 12 vị thuộc hàng Cô như sau:
Cô Cả: Cô thứ nhất hàng cô thuộc Thiên phủ. Gọi là Cô Đệ Nhất Thượng Thiên, Cô không về đồng.
Cô Đôi : Cô thứ hai trong hàng cô thuộc Nhạc phủ. Còn gọi là Cô Đôi Cam Đường, vì cô có đền thờ ở Cam Đường tỉnh Lào Cai. Cô là nhân thần, quê làng Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh, nhưng lại hiển thánh ở Cam Đường. Khi về đồng thường diễn động tác đi chợ, buôn bán.
Cô Bơ: Cô thứ ba thuộc Thoải phủ. Y phục mầu trắng. Khi về đồng có động tác chèo đò bằng hai mái dầm. ( Khác chúa Thoải chèo đò bằng một mái dầm).
Cô Tư: Hầu hạ trong cung, không về đồng.
Cô Năm: Ít được nhắc đến.
Cô Sáu: Thuộc Lục cung, nhưng kém Chầu Lục một bậc. Khi về đồng có động tác múa mồi, phát lộc hoa quả.
Cô Bảy: Ít nhắc đến.
Cô Tám: Ít nhắc đến.
Cô Chín: Còn gọi là cô Chín Giếng. Đền thờ cô gọi là “ Cửu Tỉnh Linh Từ” (đền thiêng chín giếng). Về cô Chín còn có nhiều hình tượng như
Cô Chín Thiên hoặc cô Chín Sòng thuộc Thiên phủ.
Cô Chín Ngàn hoặc cô Chín Thượng thuộc Nhạc phủ.
Cô Chín Thoải thuộc Thoải phủ.
Cô Chín Sòng, thờ ở đền Sòng tỉnh Thanh Hoá, Cô là hiện thân của bà công chúa Liễu Hạnh.
Trước cổng đền Thượng Tây Thiên cũng mới có ngôi đền Cô Chín là do những năm gần đây những người phụng sự ở nhà đền đã rước chân nhang từ đền Sòng về lập đền thờ. Thêm lên một thờ tự về Mẫu Tứ Phủ.
Cô Mười: Thờ ở Đồng Mỏ tỉnh Lạng Sơn.
Cô 11: Không rõ ràng.
Cô 12: Còn gọi Cô Bé. Về đồng cô diễn động tác phát nương làm rẫy.Giá đồng về Cô,cung văn thường hát có câu:
Khăn xanh áo lá xiêm vàng
Cổ tay vòng bạc, vai cô mang nón buồm.
Cô Bé Thượng Ngàn, cô đeo nhẫn bạc kim cương.
Cô về đồng Cô phát rẫy làm nương
          Phát từ Tam Đảo Cô phát sang Thạch Bàn.
 Gánh thóc cô tra mộ, phát nương cô trồng chè.
Ai lên Thác bạc đèo mây
Thác Tiên đào thắm đắm say lòng người….
Có tất cả là 05 Cô Bé:
Cô Bé Suối Ngang. Thuộc Nhạc phủ.
Cô Bé Thác Bờ. Thuộc Thoải phủ.
Cô Bé Thoải. Thuộc Thoải phủ.
Cô Bé Đông Cuông. Thuộc Nhạc phủ.
Cô Bé Đen, tức Cô Bé Sóc. Thuộc Nhạc phủ.
Từ danh đền Cô Bé Tây Thiên của “Tứ Phủ Thánh Cô” 四 府 聖 姑có thể hiểu ra là Cô Bé Đông Cuông hay Cô Bé Thượng Ngàn thuộc về Nhạc phủ.
Nói chung các giá đồng Cô, đều thuộc phần hầu vui, tản lộc, nên cuộc sống thần và cuộc đời thực gần như hoà mục gần gũi.
Không những thế, khi về đồng các Cô ban phát rất nhiều lộc. Đầy những mâm hoa quả, gìành cho người trần, đợi người trần.m Bởi vậy mới thành một tư duy nơi cửa điện Mẫu “ Một miếng lộc Thánh bằng gánh lộc trần”.Có câu ca:
 Muốn ăn lộc hái thì về cửa Cô.
Cửa Cô hái ra lộc “tiền tươi, quả chín” đầy ắp cho thế gian.
Sự khang trang của nhà đền còn được điểm tô bằng các đôi câu đối mới đưa vào trong đợt xây dựng lại. Như những câu:
Nhật nguyệt quang minh      日 月 光 明
Thập phương cảm ứng.        十 方 感 應
Nghĩa là:
Đêm ngày sáng soi
Mười phương nhận biết.
Vạn cổ vinh quang diên thánh điện
Thiên thu huệ trạch phúc dân anh.
萬 古 榮 光 延 聖 殿
千 秋 惠 澤 福 民 英
Nghĩa là:
Vạn xưa nơi đây vẫn vẻ vang nơi thánh ngự
Nghìn năm ơn sâu để lại, vận may tốt đẹp cho dân.
Ngoài cổng, trên các cột trụ cũng có câu đối. Như câu:
Tam Đảo Tây Thiên Bát Nhã tuyền
Vạn cổ sơn hà lưu thánh địa.
Là để chỉ vị trí ngôi đền ở vào khu vức suối Bát Nhã, nơi mang tên bộ kinh lớn của nhà Phật Kinh Bát Nhã, nghĩa là “trí tuệ”.
Cùng có đôi câu đối chữ Nôm:
Chín tầng nhật nguyệt rạng rỡ
Linh điện bốn mùa đổi mới
Vừa như ngợi ca, vừa như mong ước, cầu nguyện.
                                      Sơn Đông năm 2013.






2 nhận xét: