Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

MIẾU HIỆU THỜ 18 THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG

MIẾU HIỆU THỜ 18 THỜI ĐẠI HÙNG VƯƠNG

Lê Kim Thuyên

Viết về lịch sử nước Nam ta, đầu tiên là bộ “Đại Viêt sử ký toàn thư” của sử thần Ngô Sĩ Liên ở thế kỉ 15 chép: “HÙNG VƯƠNG, Con của Lạc Long Quân (không rõ tên húy), đóng đô ở Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc).
Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang…chia nước làm 15 bộ… đều là đất thần thuộc của Hùng Vương; Còn bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng đô….Vua các đời đều gọi là Hùng Vương…”.
(Xem bản dịch tập 1. NXB KHXH Hà Nôi 1998. Trang 133)
Đó là lịch sử thời sơ sử lần đầu tiên của nước nhà được chép vào chính sử.
Còn ở các di tích thờ cúng về Hung Vương trên cả nước. đến nay còn lưu giữ được số bản ngọc phả về các vua Hùng.Trong số đó có bản chính của ngôi đền Thượng thôn Cổ Tích xã Hy Cương huyện Lâm Thao tỉnh Phú Tho. Văn bản được biên soạn vào ngày tốt lành tháng 3 mùa xuân niên hiệu Hòng Đức năm thứ nhất (1470). Theo đây thì Hùng Vương có 18 thế hệ  (thường gọi là 18 đời) khởi đầu từ Kinh Dương Vương, kết thúc ở Hùng Tuyền Vương. (Bản AE 9a/31. Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội}.
Tuy nhiên từ trước đó, trong các sách chép về các vương triều, lại có sách “Việt Nam thế chí” gồm 2 quyển của tác giả Hồ Tông Thốc ở đời Trần, được  tác giả Lê Quý Đôn và thiên “Văn tịch chí” của tác giả Phan Huy Chú nhắc đến:
“Quyển nhất chép thế phả 18 đời họ Hồng Bàng; quyển nhị chép thế phả họ Triệu, (Triệu Đà. LKT.) sự tích có vẻ rõ ràng nhưng lời văn phần nhiều kỳ dị, cũng có thể bổ khuyết cho sự trước”. Bài tựa của sách ấy do chính tác giả viết, được họ Phan chép lại như sau:
Sách chép về thế phả vốn có từ lâu, cốt xét các đời đã qua, để rõ nguồn gốc lưu truyền, kê cứu những điều truyền văn, để rõ những tiêu chuẩn xưa nay. Hiềm vì chuyện tin, chuyện nghi lẫn nhau, có điều chưa hợp hẳn với lòng người. Nhưng việc đời biến đổi khác nhau thì làm sao lại khỏi những điều quái gở. Nghìn năm về sau khó lòng biết được đầy đủ, mà tìm trong sách vở cũng không thể tra cứu vào đâu. Bởi vậy, ghi chép về nguồn gốc thực là nhọc lòng lắm. Có người hỏi tôi rằng: Bỏ cái lạ giữ cái thường là đạo của thánh hiền, tại sao ông lại câu nệ theo cũ, không nêu rõ lời mới để đổi hẳn thói mê hoặc của đời?”. Tôi đáp rằng: Thời Thái cổ còn hỗn mang, chưa phân biệt trời đất, ngay Trung Quốc cũng còn nhiều thuyết hoang đường, như những chuyện vá trời, húc núi, lấy chân ngao làm cột trời và mườ imặt  trời cùng mọc… Đời sau cứ theo như sách mà bàn luận, không kê cứu vào đâu được, đúng hay không đúng, vẫn còn ghi chép trong sử sách. Huống chi đất Việt ta ở vào cõi sa, sự hiểu biết cũng khác, từ thời Hồng Bàng thời gian xa cách, trong lúc mới mở mang, sách vở chưa đủ, lễ nhạc chưa làm, nếu cho là có thực thì bởi đâu mà biết? Nếu cho là không có, thì do đâu mà xét ra? Cho nên những chuyện cóp nhặt được đều do lượm lặt ở tiếng vang chuyện đồn, trích lấy đầu đuôi để cho biết rõ về phả ký tưng đời mà thôi, còn những sự tích kỳ quái, lờ mờ khó xét tạm giữ đó để chờ các bậc quân tử sau này, dám đâu xuyên tạc ra lời quái dị để mê hoặc người đời. Độc giả nên lưu tâm nhận kỹ, cố sức suy nghiệm thì ngọc và đá đều sẽ rõ ràng những hình tiếng bóng vang của những chuyện quái đản không đợi phá cũng vỡ.
“Vả lại, nước Nam ta ở vào dải đất nóng nực, trong cõi mênh mông, vua sáng suốt đời nào cũng có. Dẫu rằng núi sông rộng lớn, chia biệt mỗi lúc một khác, nhưng từ xưa đến nay, chỉ căn cứ vào tục truyền và dấu vết hỏi về dĩ vãng thì nhờ các cụ già kể chuyện, xét nghiệm ở tương lai thì có những đền miếu thờ cúng”.
“Tôi quên mình hẹp hòi quê hủ, chép sơ lược những chuyện ngụ ngôn, những điều truyền thuyết, muốn đợi các vị cao minh học rộng tiến bộ sau này, nhận rõ xét kỹ mới có thể biết được trước sau mà không tự nhầm lẫn. Nếu có ai sửa lại cho tập sách này được đúng, cho lời chép được hay, đẽo gọt kỹ càng, rồi đem in ra để mọi người thấy rõ sự việc xưa nay bà hiểu thấu dễ huyền vi, thì đó cũng là một sử ký trong truyện ký chăng! Vậy làm tựa”.
“Việt Nam thế chí” là loại sách xếp vào loại truyện ký, cũng là loại sách sử. Và từ bài tựa chép trên đây có hai lượng thông tin rất đáng chú ý:
1- Phả hệ 18 thời đại Hùng Vương.
2- Tín ngưỡng thờ cúng các Vua Hùng ở cuối thế kỷ XIV với số lượng điểm thờ tự và điển lệ thờ cúng
Tuy nhiên, sách đã mất, nên cũng không thể biết gì hơn.
Hiện nay, ở nhiều nơi còn lưu giữ được nhiều văn bản chép thế chí 18 thời đại Hùng Vương, mang nhan sách là “ Việt Nam sử ký” trong ngọc phả của một số làng xã thờ cúng các vua Hùng với nhan sách tổng tập đề là “Việt Nam Hùng Vương ngọc phả vĩnh truyền miêu duệ tôn điệt ức vạn niên hương hỏa tự điển truy tư sùng bái” 南越雄王玉譜永傳苗裔孫侄億萬年香火祀典追思崇拜. Có niên đại xuất xứ còn sớm hơn cả bản  của Hồ Tông Thốc, với dòng lạc khoản : Thiên Phúc nguyên niên, chính nguyệt, nhị thập ngũ nhật 天福 元年正月二十五日(ngày 25 tháng giêng niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất), của ghi chép thuộc về đời Lê Đại Hành ( năm 980).  Đây hẳn  là chép về các sự tích, miếu hiệu để thờ cúng nơi miếu điện. Đáng tin cậy là các bản:
- Văn bản là phần đầu tập thần tích xã Hà Lộc [đình thôn Vân Thê, tục danh đình Thia], huyện Sơn Vi, phủ Lâm Thao tỉnh Phú Thọ. Nay thuộc về thị xã Phú Thọ.
 Văn bản này được trường Viễn Đông Bắc cổ Pháp kiểm kê ngày 14/10/1943 và sao chép lại, nay tàng trong kho thần tích VNCHN Hà Nội [  Kho AE.9a/27]
- Văn bản tàng ở Hùng Vương miếu thôn Vân Luông xã Vân Phú thành phố Việt Trì, là một bản chép tay trên giấy bản khổ rộng, có niên đại soạn thảo ở phần cuối là “ Thiên Phúc nguyên niên, chính nguyệt, nhị thập ngũ nhật” “thuộc Lê Đại Hành thư kí”.  天福元年 年正月二十五日        屬黎大行書記 nghĩa là: Ngày 25 tháng giêng niên hiệu Thiên Phúc năm thứ nhất [980]. Sách chép vào đời Lê Đại Hành [980-1009] Hai văn bản kể trên có thể cùng một xuất xứ, vì hoàn toàn giống nhau về bố cục toàn tập.
- Văn bản thứ ba là phần mục: Hùng Vương thánh tổ Nam thiên đại bảo tiền Hoàng Đế cung miếu điện chép trong tập thần tích xã Vi Cương [AE.9a/15]. Là phần ghi về miếu hiệu thờ cúng các vua Hùng của làng Vi ở đền Hạ.
- Văn bản thứ 4 là thần tích của đình thôn Phú Nông làng Hoàng Xá Hạ xã Kim Xá huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Có cách ghi chép nội dung gần đúng như bản của xã Hà Lộc.
Các sách đều thống nhất chép về thời Hùng Vương đều có 18 đời (Thập bát thế  十八世). Có thứ tự sắp xếp 8 đời đầu theo trình tự của “bát quái”: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Li, Khôn, Đoái. Cùng với 10 số nữa theo  thứ tự của “Thập can” là : Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỉ, Canh, Tân, Nhâm, Quý. Cộng là 18 “đời”.
So sánh giữa 4 văn bản này với nhau thì tuy có bố cục giống nhau, nhưng về danh xưng có một số đời còn chép không đồng nhất cũng như thứ tự trên dưới không giống nhau, nhưng về danh tính 18 dời thì đầy đủ. Tôi nghĩ rằng đây là lỗi của người chép về sau.
Nay đem theo thứ tự của bản xã Hà Lộc làm dẫn liệu những nét chính của tư liệu địa phương để viết bài này, như sau:        
Chi “càn” Kinh Dương Vương . 涇陽王
Tên húy là Lộc Tục, ở ngôi 250 năm [ chi này] dài lâu tới 271 năm. Khởi từ năm Nhâm Ngọ [2879]. Sinh ngày mồng 4 tháng giêng, cuối cùng trở về biển ở hồ Động Đình .
Lấy con gái của Đế quân, sinh con trưởng là Sùng Lãm, phong làm Lạc Long Quân, là vua hiền vào năm Bính Thìn, giữ quyền cai trị ở Phương Nam.
Dương Vương có 6 cung phi, sinh ra 14 người con giai là Hoàng Tử, sinh ra 12 người con gái là công chúa, con cháu đời sau trong họ có 36 chi, sinh cháu chắt 592 người. Vương xếp đặt sửa sang công việc, trên dưới chư hầu đều phục, khiến cho trăm bộ lạc người Man, các nước nhỏ bốn bên đều lấy lễ đối đãi. Các phương tám cõi cùng hưởng phúc đời thái bình.
Miếu hiệu: Hùng Vương Cao Hoàng Thái Tổ Đức Tông Hoàng Đế. 雄王高皇太祖德宗皇帝
[chữ đẹp truy phong sau khi đã mất]: Hùng Vương Thánh Tổ Nam Thiên Đại Bảo Đức Tông Hoàng Đế. 雄王聖祖南天大寶德宗皇帝
Chi “khảm”Hùng Hiền Vương. 雄賢王.
Tên húy là Sùng Lãm, ở ngôi 296 năm, dài lâu tới 506 năm. Tuổi Bính Thìn, sinh ngày mồng 5 tháng 5, mất ngày mồng 9 tháng giêng. Lúc sống, khi mất đều về với bể, làm đế vương Long Quân ở hồ Động Đình. Hiền Vương lấy con gái thứ của Đế Lai là Âu cơ Âu Lạc Nương ở tại núi Nghĩa Lĩnh, sinh ra một bọc trăm trứng từ đó có 100 con trai, làm thủy tổ của Bách Việt nước Văn Lang, cũng là buổi mở đầu của nền thánh, dựng lên cơ đồ rộng lớn.
Vương có 9 cung phi, sinh ra một trăm mười tám con giai làm Hoàng tử(12), 19 con gái là công chúa. Con cháu đời sau trong dòng họ có 137 chi, sinh cháu chắt 3599 người. Vương sửa sang xếp đặt công việc trong nước đều có lề lối, quy mô. Giời ban cho của quý, Thần giúp đỡ tài năng, việc nước xưa nay chưa từng có như thế.
Rồi 100 con của Vương xếp đặt trong nước làm 100 khu, mỗi người giữ một nơi, đổi làm 100 họ.
Miếu hiệu: Hùng Hiền Vương Cao Hoàng Thái Tổ Quốc Tông Quang Hưng Hoàng Đế.  雄賢王高皇太祖國宗光興皇帝
[Mỹ tự truy phong]  Hùng Vương Đại Bảo Tiền Hoàng Đế Khai Quốc Hồng Đồ Nam Thiên Thượng Thánh Tiền Đại Đế Vương Thánh Vương  雄王大寶前皇帝開國洪圖南天上聖前代帝王聖.
Chi “cấn”: Hùng Quốc Vương. 雄國王.
Tên húy là Lân Lang, ở ngôi 217 năm, chi này dài lâu tới 767 năm. Vương tuổi Canh Ngọ, sinh vào giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng 5 cùng với 100 vương, đều là tuổi Canh Ngọ. Về sau, 100 vương cùng hóa vào giờ Thìn  ngày 12 tháng 3 khi các vương cùng ở cả trong điện.
50 vương thuận theo cha, 50 vương thuận theo mẹ. Quốc Vương đưng đầu 100 vương, trao cho 18 Vương coi sóc công việc trong nước.
Vương có 12 cung phi, sinh được 33 con giai là Hoàng tử, 18 con gái là công chúa. Nghi Vương là con trưởng giữ cơ nghiệp nhà Hùng. Vương có 15 chi, sinh được 900 người cháu chắt. Vào giờ Ngọ ngày mồng 5 tháng 5, giữa khoảng ban ngày ban mặt mà bay lên trời, hóa sinh không bao giờ mất. Từ trên đỉnh núi, ngồi trong tòa mây năm sắc vút lên không trung, hóa thành thần, muôn đời thờ cúng.
Miếu hiệu: Hùng Vương Thượng Thánh Tông Nguyên Triều Hoàng Đế.  雄王上聖宗元朝皇帝
[Mỹ tự truy phong]: Thánh Tổ Hùng Vương Nam Thiên Thượng Thánh Tiền Hoàng Đế Khai Quốc Hồng Đồ Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị Nhất Thập Bát Thế Thánh Vương. 聖祖雄王南天上聖前皇帝開國洪圖突屼高山古粵雄氏一十八世聖王
Chi “chấn”: Hùng Hy Vương. 雄曦王.
(Bản ngọc phả xã Hy Cương AE a9/31 chép là Việp Vương 曄王)
Tên húy là Bảo Lang, ở ngôi 300 năm, chi này dài lâu tới 546 năm, sinh giờ Mão, ngày mồng 6 tháng giêng năm Tân Mùi. Hóa thân giờ Ngọ ngày 5 tháng 5 thành Kim Tiên coi 3000 tiên vương trong cửa Ngọc, sinh ra Hy Vương là con giai trưởng cho nối ngôi, cùng với 8 Vương xếp đặt công việc.
Vương có 40 cung phi, sinh được 49 con giai là hoàng tử, sinh 24 con gái là công chúa, có 69 chi con cháu đời sau, tất cả có 1591 người cháu chắt.
Thời Vương ở ngôi, dân chúng trăm họ không chịu phú tô, không có chinh chiến, vương coi trọng công việc, cấy lúa trồng dâu, cốt làm cho trong nước thật sự giàu có, khắp bốn bể đều mạnh hùng.
Miếu hiệu: Hùng Hy Vương Thần Tông Ân Trạch Hoàng Đế.  雄曦王神宗恩澤皇帝
[Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Viễn Sơn Thánh Vương Ân Trạch Phổ Huệ Thánh Vương.  雄王遠山聖王恩澤普惠聖王
Chi “tốn”: Hùng Hi Vương. 雄曦王.
Tên húy là Viên Lang, ở ngôi 200 năm, chi này dài lâu 599 năm, sinh ngày 15 tháng 2 năm Đinh Mão, mất ngày 20 tháng 5. Sinh Hoa Vương là con trưởng, truyền cho 5 Vương nối ngôi xếp đặt công việc trong nước.
Vương có 36 cung phi, sinh 52 con giai là Hoàng tử, 9 con gái là công chúa, con cháu đời sau có 61 chi, sinh ra cháu chắt 1600 người. Thời Vương coi xếp việc nước là thời thái bình. Dân không biết nói dối, không biết làm loạn, khắp nơi yên ổn giàu có.
Miếu hiệu: Hùng Vương Cao Tông Trợ Thắng Hoàng Đế.  雄王高宗助勝皇帝
[Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Ất Sơn Thánh Vương Trợ Thắng Hoàng Đế.  雄 王乙山聖王助勝皇帝
Chi “ly”: Hùng Việp Vương  雄曄王
(Bản AE a9/31 chép là Hy Vương 曦王)
Tên  húy là Pháp Hải Lang, ở ngôi  81 năm, chi này dài lâu tới 580 năm. Sinh ngày 18 tháng 5 năm Mậu Tý. Mất ngày mồng bảy tháng giêng, sinh ra Huy Vương là con giai trưởng.
Việp Vương có 48 cung phi. Sinh được 33 con giai là Hoàng Tử, 19 nữ là công chúa, con cháu đời sau có 52 chi, cháu chắt có 699 người. Thời Vương giữ nước, mọi công việc đều theo như pháp độ thời trước. Do Vương nghe theo kẻ sàm thần, mải lo việc yết trời đất, khiến giặc Ân ở phương Bắc sang xâm.
          Miếu hiệu: Hùng Việp Vương Bảo Tông Minh Vương Hoàng Đế.  雄曄王寶宗明王皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Bách Việt Thần Linh Nam Thiên Đại Bảo Nhân Viên Minh Vương Thánh Vương.  雄王百粵神靈南天大寶仁圓明王聖王
Chi “khôn”: Hùng Huy Vương  雄暉王
          Tên huý là Long Tiên Lang, ở ngôi 200 năm dài lâu 629 năm. Sinh ngày 10 tháng 10 năm Tân Dậu, mất ngày 15 tháng 7 Vương mất ngay ở trong điện, thành Tiên bất diệt.
          Vương lấy nàng Ngọc Tiêu ở núi Tam Đảo làm chính hoàng phi. Sinh con trai là Ninh Vương nối ngôi giữ nước, truyền được 5 đời Vương cùng lo việc nước.
          Huy Vương truyền cho 7 Vương nối ngôi. Vương có 16 cung phi, sinh ra 13 con giai là Hoàng Tử, 36 con gái là công chúa. Con cháu đời sau có 59 chi, sinh cháu chắt là 710 người.
          Thời Vương giữ nước là thời thái bình, chư hầu cảm phục, nhân dân không có kẻ gian dối.
          Miếu hiệu: Hùng Huy Vương Thái Tông Nhân Minh Hoàng Đế.  雄暉王太宗仁明皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Hiển Đức Nhân Minh Quang Thiên Phổ Hoá Thánh Vương.  雄王顯德仁明光天普化聖王
                   Chi “đoái”: Hùng Ninh Vương  雄寧王
          Tên huý là Bính Vân Lang, ở ngôi 100 năm, dài lâu tới 642 năm. Sinh ngày 15 tháng 7 năm Nhâm Thìn. Mất ngày 11 tháng 10. Sinh con trưởng là Chiên Vương nối ngôi giữ nước, truyền được 5 đời Vương.
          Minh Vương có 29 cung phi, sinh được 31 con giai là hoàng tử, 16 con gái là công chúa. Dòng giống nhà Vương có 47 chi, sinh ra cháu chắt 570 người. Vương giữ nước được thái bình.
          Miếu hiệu: Hùng Vĩ Vương [ tức Ninh Vương - LKT] Hiển Tông Duệ Trí Hoàng Đế.  雄偉王顯宗睿智皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Thánh Văn Thần Vũ Duệ Trí Chí Đức Thánh Vương.  雄王聖文神武睿智至德聖王
Chi “giáp”: Hùng Chiêu Vương  雄昭王
          Tên huý là Quốc Tiên Lang, ở ngôi 80 năm, dài lâu 602 năm. Sinh ngày 22 tháng 8 năm Quý Tỵ. Mất ngày mồng 10 tháng 4. Sinh ra con giai trưởng là Uy Vương cho nối ngôi.
          Vương có 46 cung phi. Sinh được 33 con giai là Hoàng Tử, 9 con gái là công chúa. Dòng giống nhà Vương có 42 chi, sinh cháu chắt 559 người.
          Vương giữ cho thiên hạ được thái bình.
          Miếu hiệu: Hùng Chiêu Vương Minh Tông Thần Tông Hoàng Đế.  雄昭王明宗神皇帝
           [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Dương Long Hy Lĩnh Thần Công Dũng Lược Thánh Vương.  雄王楊龍曦嶺伸神功勇略王
Chi “ât”: Hùng Uy Vương  雄威王
          Tên huý là Hoằng Hải Lang, ở ngôi 90 năm. Dài lâu đến 511 năm. Sinh ngày 15 tháng 11 năm năm Ngọ[?]. Mất ngày mồng 6 tháng . Sinh ra Trinh Vương là con trưởng cho nối ngôi, truyền cho 3 vương giữ nước.
          Uy vương có 40 cung phi, sinh ra 29 con giai là Hoàng tử, 30 con gái là công chúa. Dòng dõi nhà vương có 59 chi, sinh cháu chắt được 434 người. Xếp đặt công việc nước, việc dân trong bốn bề đều theo như lệ triều trước.
          Miếu hiệu: Hùng Uy Vương Hùng Tông Xuân Vương Hoàng Đế.  雄威王雄宗春王皇帝   
 [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Hùng Đức Chiêu Nhân Quang Hiếu Xuân Vương Thánh Vương. 雄王雄德昭仁光孝春王聖王
Chi “bính”: Hùng Trinh Vương  雄禎王
          Tên huý là Hưng Đức Lang, ở ngôi 107 năm, dài lâu tới 514 năm. Sinh ngày 23 tháng 8 năm Canh Tuất. Mất ngày mồng 2 tháng giêng. Sinh Vũ Vương là con giai trưởng truyền được 5 đời vương giữ nước.
          Trịnh Vương có 36 cung phi, sinh ra 46 con giai là Nam Hoàng tử, sinh 18 con gái là công chúa.
            Vương giữ nước được yên bình.
          Miếu hiệu: Hùng Trinh Vương Đức Tông Minh Bảo Hoàng Đế.  雄禎王德宗明寶皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Hiển Liệt, Thánh Trí Chiêu Dung  Minh Bảo Thánh Vương.  雄王顯烈聖智昭融明寶聖王
Chi “đinh”: Hùng Vũ Vương  雄武王
          Huý Hiên Đức Lang, sinh ngày 14 tháng 4 năm Bính Thân. Mất ngày 15 tháng 2. Sinh con giai trưởng là Việt Vương giữ nước. Truyền nhau được 3 đời Vương.
          Vương có 25 cung phi, sinh được 50 con giai là hoàng tử, sinh 6 con gái là công chúa. Dòng giống nhà Vương có 56 chi, sinh ra cháu chắt 305 người.
          Vương giữ nước yên bình, khắp nơi cùng phục.
          Miếu hiệu: Hùng Vũ Vương Thánh Tông Thượng Lãm Hoàng Đế.  雄武王聖宗上覽皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Hoàng Thượng Đại Lãm Thần Trí Hoàng Đế.  雄王皇上大覽神智聖王
Chi “mậu”: Hùng Việt Vương  雄越王
          Tên huý là Tuấn Lang, ở ngôi 105 năm, lâu dài tới 502 năm. Sinh ngày 10 tháng 10 năm Kỷ Hợi, mất ngày 15 tháng 11. Sinh con trưởng là Định Vương. Truyền được 5 đời Vương giữ nước.
          Vương có 31 cung phi, sinh được 27 con giai là hoàng tử, 30 con gái là công chúa. Dòng dõi nhà Vương có 59 chi, sinh ra cháu chắt 541 người.
          Vương giữ nước được thái hoà, dân không có giặc dã.
          Miếu hiệu: Hùng Việt Vương Huy Tông Quang Phúc Hoàng Đế.  雄越王輝宗光福皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Thiên Tâm Quang Húc Ngọc Tương Linh Ưng Thánh Vương.  雄王天心光福玉相靈應聖王
Chi “kỷ”: Hùng Định Vương  雄定王
          Tên huý là Chân Nhân Lang, ở ngôi 99 năm, lâu dài 360 năm. Sinh ngày 11 tháng 5 năm Bính Dần. Mất ngày 15 tháng 10. Sinh ra Triêu Vương là con trưởng. Truyền nhau được 3 đời vương giữ nước.
          Vương có 18 cung phi. Sinh ra 18 con giai là Hoàng tử, 22 con gái là công chúa. Dòng dõi nhà vua có 40 chi, sinh cháu chắt 309 người.
          Vương giữ nước được thái bình, bốn phương yên tĩnh.
          Miếu hiệu: Hùng Định Vương Tông Quốc Bảo Hoàng Đế.  雄定王宗國寶皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Quốc Bảo Tuyên Đức Thần Công Thượng Trí Thánh Vương.  雄王國寶宣德神功上智聖王
Chi “canh”: Hùng Triêu Vương  雄朝王
          Tên huý là Cảnh Lang, ở ngôi 94 năm, lâu dài tới 286 năm. Sinh ngày mồng 4 tháng giêng năm Quý Sửu. Mất ngày mồng 9 tháng 9. Sinh ra Tạo Vương là con trưởng nối ngôi. Truyền được 3 đời Vương giữ nước.
          Triệu Vương có 60 cung phi, sinh được 40 con giai là hoàng tử, 16 con gái là công chúa. Dòng dõi nhà Vương có 56 chi. Sinh ra cháu chắt là 399 người.
          Vương giữ gìn trong nước được thái bình.
          Miếu hiệu: Hùng  Triêu Vương Nhân Tông Quang Đức Hoàng Đế.  雄 朝王仁宗光德皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Nhân Chiêu Quang Đức Thần Trí Đại Nguyên Thánh Vương.  雄王仁昭光德神智大元聖王
Chi “tân”: Hùng Tạo Vương  雄造王
          Tên huý là Đức Quân Lang ở ngôi 92 năm. Lâu dài tới 273 năm. Sinh ngày 15 tháng 12 năm Kỷ Tỵ. Mất ngày mồng 9 tháng 9. Sinh ra Nghị Vương là con trưởng truyền nhau được 3 đời Vương giữ nước.
          Tạo Vương có 26 cung phi. Sinh ra được 36 con giai là hoàng tử, 7 con gái là công chúa. Dòng dõi nhà Vương có 37 chi, sinh ra cháu chắt 390 người.
          Vương giữ nước được thái bình trăm họ, trong nước được no đủ, giàu có.
          Miếu hiệu: Hùng Tạo Vương Kính Tông Thiên Bảo Tiên Triều Hoàng Đế.  雄造王敬宗天寶先朝皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Thánh Tổ Nam Thiên Đại Bảo Tiên Triều Thánh Vương.  雄王聖祖南天大寶先朝聖王
Chi “nhâm”: Hùng Nghị Vương   雄毅王
          Tên huý là Bảo Quang Lang, ở ngôi 160 năm lâu dài tới 217 năm. Sinh ngày 15 tháng 8 năm Ất Dậu. Sinh ra Duệ Vương là con trưởng, truyền nhau được 4 đời Vương giữ nước.
          Vương có 39 cung phi, sinh được 22 con giai là hoàng tử, 15 con gái là công chúa. Dòng dõi nhà vương có 37 chi, sinh cháu chắt là 291 người.
           Vương giữ nước cơ đồ rộng rộng lớn.
          Miếu hiệu: Hùng Nghị Vương Thuỵ Tông Nam Triều Hoàng Đế.  雄毅王瑞宗南朝皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Hoàng Bảo Thánh Tổ Nhân Hoằng Huệ Đức Thánh Vương.  雄王皇寶聖祖仁弘惠德聖王
Chi “quý”: Hùng Tuyền Vương  雄璿王
          Tên huý là Huệ Đức Lang. Ở ngôi 115 năm, lâu dài tới 227 năm. SInh ngày mồng 3 tháng 3 năm Canh Tân. Mất ngày mồng 5 tháng 5, ở trên điện vào giữa ban ngày, Vương cùng con rể là Tản Viên cùng bay lên giời thành tiên, thọ cùng giời đất. Muôn đời được làm thánh vương. Thánh Vương hết đỗi linh thiêng, kiêm bậc thượng đẳng đứng đầu bách thần.
          Vương truyền cho 5 con nối ngôi giữ nước. Trước đã truyền cho con trưởng là Kính Vương nối ngôi được 6 năm thì mất. Sau truyền ngôi cho con thứ là Cảnh Lang được 10 năm thì mất. Lại truyền ngôi cho cháu đượi 3 năm cũng mất. Rồi mới truyền cho rể hiền Tản Viên, thay Vương lập chế độ, giữ yên thiên hạ được 10 năm. Cuối cùng nhường cơ nghiệp nhà Hùng cho Thục An Dương Vương, cũng là cháu chắt họ Hùng, tông phái của đời vua Hùng trước, làm bộ chúa phụ đạo ở đời thứ 19.
          Tuyền Vương có 100 cung phi, đắm say tửu sắc. Sinh được 24 con giai là hoàng tử, 6 con gái là công chúa. Dòng dõi nhà Vua có 26 chi, sinh ra cháu chắt 194 người.
          Đến đây vận nước vào buổi các chung, cơ đồ họ Hùng ở thời kỳ cuối, 24 con giai và 4 con gái Vương đều chết nên không có người nối dõi, chỉ còn 2 con gái, một người tên là Mỵ Châu Tiên Dung công chúa đã gả cho Chử Đồng tử thành tiên bất diệt. Một người tên là Mỵ Châu Ngọc Hoa công chúa gả cho Sơn Tinh Tản Viên, cho nối ngôi trở thành con rể giỏi giang của cả nước, cũng là một vị vua hiền được 10 năm thì nhường cho Thục An Dương Vương.
          Sau đó, Tuyền Vương và Tản Viên Sơn, cha con đã cùng một ngày trở thành Tiên, biến đổi không cùng. Muôn đời xưa nay trong thiên hạ không có ai sánh được với vị đại thánh minh quân như vậy.
          Trở lên, tính ra cơ đồ nhà Hùng 18 thời đại, thay nhau truyền giữ ngôi báu là 180 đời đế vương, quy tụ nước non về một mối xa thư gìn giữ, xây dựng được 120 thành điện.
          Miếu hiệu: Hùng Tuyền Vương Thiên Tông Minh Vương Hoàng Đế.  雄璿王天宗明王皇帝
          [Mỹ tự truy phong]: Hùng Vương Thần Linh Hải Đức Minh Vương Nam Triều Thánh Vương.  雄王神靈海德明王南朝聖王
Tổng cộng niên kỷ có 18 thời đại thánh vương truyền nhau, con thánh, cháu thần đế vương các triều đại hưởng nước là 2655 năm, lâu dài tới 8618 năm. Sinh ra 980 chi hoàng tôn, công chúa. Sinh cháu chắt dòng dõi cộng là 14370 người đều có hiệu là Cổ Việt Hùng Thị Thập Bát thế thánh Vương 古粵雄氏十八世聖王. Trang cuối có ghi chép thánh tâm của các bài vị thờ cúng ở 3 “thần cung” các vua Hùng.




Miếu hiệu chép trong ngọc phả đền Vân Luông..

1. Thượng thần cung điện: Đền Thượng
Thờ 3 bài vị. Dòng thánh tâm bài vị giữa có hàng chữ “Đột Ngột Cao Sơn  突屼高山, Bên dưới chua “lưỡng cước” những mĩ tự mà các vua đời sau truy phong: Hiển linh. Thống thủy, Điện an, Hoằng tế, Phổ hóa, Minh túc, Hậu ứng, Quảng huệ.   顯靈統水奠安弘濟普化明肅厚應廣惠.
Đó là thờ về Hùng Quốc Vương 雄國王 . Thời đại khởi thủy của nhà Hùng.
Bài vị bên trái có hàng chữ: Viễn Sơn thánh vương  遠山聖王, là thờ về thời đại Hy Vương  曦王.
(Bản ngọc phả xã Hy Cương AE a9/31 chép là Việp Vương 曄王)
Bài vị bên phải có hàng chữ: Ất Sơn thánh vương  乙山聖王. Là thờ về thời đại Hi Vương
Còn các di tích thờ vua Hùng ở đền Trung, đền Hạ đến các làng xã các địa phương khác là các di tích “đồng phụng sự” đều ghi dòng thánh tâm ở bài vị giữa là Đột Ngột Cao Sơn Cổ Việt Hùng Thị Thập Bát Thế Thánh Vương” 突兀高山古粵雄氏十八世聖王 để phân biệt “chính” và “đồng”.
                                                                   Năm 1997.

         



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét