Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014

VỀ NGÔI ĐÊN TRIỀN

VỀ NGÔI ĐÊN TRIỀN
Phường Ngô Quyền thành phố Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc
                                                         
LÊ KIM THUYÊN       
           
Thuộc về khu chợ cũ của tỉnh Vĩnh Yên đời xưa có một ngôi đền, gọi là đền Triền. Chữ “TRIỀN’’廛, từ Hán Việt có nghĩa là “chợ’’. Chữ chợ dùng để chỉ nơi công cộng đông người đến mua bán giao thương hàng hóa vào những ngày nhất định, buổi nhất định. Do vậy có thể gọi là đó đền “Chợ”, phố “Chợ”. Chợ Triền thành phố Vĩnh Yên nguyên xưa có tên là chợ “Cát” huyện Tam Dương ghi trong sách “Đại Nam nhất thống chí”, mục tỉnh Sơn Tây: “Chợ Cát ở huyện Tam Dương” (Bản dịch tập 4, trang 219. NXB KHXH Hà  Nội năm 1971). Nơi có thành phủ Đoan Hùng đóng ở xã Tích Sơn, mãi đến năm Gia Long thứ 07 (1808) mới dời đến địa phận xã Quả Cảm huyên Tây Quan nay thuộc huyện Đoan Hùng tỉnh Phú Thọ. Xã Tích Sơn từ năm ấy trở lại là lị sở của huyện Tam Dương cho mãi tới năm thành lập tỉnh Vĩnh Yên , năm 1899. Theo gia phả họ Dương, về gốc tích, ngôi “chợ Cát” có nguyên từ trước đờì ông Trạng nguyên Dương Phúc Tư (1505-1563) đời vua Mạc Phúc Nguyên (1547-1561) có con trai là Dương Cương Thiện ở thôn Đông xã Vĩnh Mỗ huyện Yên Lạc lên làm nhà ở xã Tích Sơn vừa làm nghề dạy học vừa mở một chỗ buôn bán, tục truyền vẫn gọi là “Cựu Cát thị”, tên nôm gọi là chợ Cát cũ, là ngôi chợ mà sách “Đại nam nhất thống chí” đã ghi chép. Ở Vĩnh Yên ngày nay vẫn còn có câu tục ngữ “Họ Dương lập làng, họ Hoàng đào giếng” để ghi nhận về việc này. Chợ Triền là tên sau của tên chợ Cát cũ, do vậy vốn có lịch sử gần 500 năm nay. Đến đời vua Gia Long năm thứ 7 (1808), khi xã Tích Sơn được chọn làm lị sở của huyện Tam Dương phủ Đoan Hùng tỉnh Sơn Tây, các cơ quan huyện đóng ở đồi Yên Sơn (nay đặt cơ quan Tỉnh uỷ tỉnh Vĩnh Phúc) thì thôn Triền đã thuộc về khu trung tâm thương mại của toàn huyện. Đến khi lập tỉnh Vĩnh Yên thì tên chợ là “chợ Vĩnh Yên”, đại diên cho hàng tỉnh nên thường gọi là “chợ Tỉnh”.
Tuy nhiên, tên “Triền”, nơi đặt chợ thì vẫn không mất. Đó chính là xóm Triền (xóm chợ), nay đổi gọi là phố “Chiền” thuộc phường Ngô Quyền thành phố Vĩnh Yên.
          Đến giữa thế kỷ 19, vào đời vua Tự Đức, danh sĩ nước ta thời ấy là Cao Bá Quát (1809 – 1854), trong một lần đến thăm vùng đất huyện Tam Dương, ông đã đề bài thơ ở chùa Tích Sơn, toạ lạc ở nền cũ là khu đất toà sứ Vĩnh Yên năm thành lập tỉnh 1899.
          Bài thơ được mở đầu với bốn câu như sau :
               島嶺西城片片龍
              天然秀出小孤峰
              潭開江世還三面
              山抱村居鬱幾重….
                  Đảo lĩnh tây thành phiến phiến long
                   Thiên nhiên tú xuất tiểu cô phong
                   Đàm khai giang thế hoàn tam diện
                   Sơn Bão thôn cư uất kỉ trùng…
          (Cao Chu Thần thi tập A.299 viện Hán Nôm Hà Nội.)
          Đại ý như sau:
                    Ở về phía tây của ngọn núi Tam Đảo,lớp lớp nổi lên con rồng .
                        Ngọn lẻ loi Tích Sơn là nơi giời đất ban cho cảnh đẹp.
                        Đầm mở ra ba bên, sông vòng lại.
                        Núi ôm vào một khu dân cư đông đúc…
Vậy là nhận biết điạ mạch phong thuỷ của con rồng ấy xuất phát từ núi Tam Đảo khu Chân Suối xã Hồ Sơn huyện Tam Đảo chuyển mình theo con đường 2B, qua xã Hợp Châu , vai rồng nổi lên ở đồi Yên Lập (Dốc Láp ),cổ rồng nay là đường Kim Ngọc thuộc thôn Triền, đầu rồng là đồi Yên Sơn ( xã Vĩnh Yên đời xưa ) nơi toạ lạc cơ quan Tỉnh Uỷ tỉnh Vĩnh Phúc. Dấu tích còn lại là giếng “ mắt rống” ở khu vực gần nhà Bảo Tàng Vĩnh Phúc. Khu dân cư đông đúc ấy nay có thôn “TRIÊN”, thuộc phường Ngô Quyền thành phố Vĩnh Yên bây giờ.
          Như vậy khu Triền là thuộc về một miền đất thiêng liêng của Vĩnh Yên.
          Theo tín ngưỡng nguyên thuỷ người Việt, ở đâu có người là ở đó có sự thờ tự, cho dù thần điện nơi đó có kiến trúc hoặc chưa có kiến trúc.Thờ tự để dân chúng cầu mong sự tốt lành, con người mạnh khoẻ, mùa màng bội thu, của cải dư thừa, nhà nhà ấm no hạnh phúc. Dân giầu thì nước mạnh, cơ sở để tồn tại một “quốc thái dân an”. Thờ tự là một nhu cầu văn hoá tín ngưỡng tâm linh cùng tồn tại với đời sống vật chất xã hội.
          Ngôi đền Triền được lập nên, tuy chưa xác định được niên đại khởi dựng, song về ý nghĩa xã hội không ngoài mục đích đó. Vị “thần” được thờ tất nhiên là vị giữ trách nhiệm cương vị là thần bảo hộ cho nhân dân khu Triền trong tín ngưỡng thiêng liêng và trong ước vọng yên lành về đời sống xã hội.
          Theo quan niệm Việt cổ đó là vị “ Thần Đất”, nhân dân thường gọi là thần “Bản Thổ”.
 Trong đền ngày nay đang còn bức hoành phi 4 chữ:
敬 哉 有 土
KÍNH  TAI  HỮU  THỔ
          Có nghĩa là:
          Kính vậy thay ! Là Thần Đất ( có công phù trợ).
          Bức hoành phi được lập vào đời vua Bảo Đại năm Bính tí,dương lịch là năm 1936.
          Thần Đất – Đó là vị thần trông nom, cai quản mặt đất một khu vực. Ở Việt Nam thần thường hiện hình là một ông già to béo, hiểu biết hết mọi công việc dưới trần gian.Hàng năm, cứ đến 07 ngày cuối (Từ 23 đến 30 tháng chạp) thần lại lên Thiên Đình để chầu Trời. Trong những ngày đó,mặt đất ngừng hoạt động, đến 30 tháng chạp thần  mới trở về, lúc đó mặt đất như bừng tỉnh, mọi hoạt động mới trở lại. Trong khoảng thời gian đó không ai dám động vào“Đất”của thần. Phải đợi đến ngày 02 đầu năm, sau khi làm lễ “động Thổ”,người ta mới lại dám đào xới hoặc cày bừa, nghĩa là mới dám động vào Đất của thần.
          (Ngày nay do chịu pha trộn với thần thoại Trung Hoa nên thần còn có danh hiệu là Ông Địa, nhất ở khu vực Nam Bộ).
          Theo dòng tín ngưỡng nước Việt ta, mỗi nơi (vùng hoặc tiểu vùng) đều có 01 Thần Đất (Ông Địa) trông nom trật tự và dân chúng vùng ấy. Ở
khu Triền cũng có một vị Thần Đất như vậy gäi lµ, “thÇn b¶n thæ”, thê ë miÕu.
          Trên thần đất còn có thần Thành Hoàng, đó là vị thần làm chúa tể một phương.cai quản một khu vực rộng lớn hơn che chở cho dân chúng.Do vậy Ngọc Hoàng thường hay tuyển chọn Thần Đất cho làm chức vụ Thành Hoàng một cách luân chuyển, nên gọi là 當 境 城 隍 Đương cảnh Thành Hoàng thờ ở  miếu, khi có đình là thờ ở đình.
          


Thần Thành Hoàng khu đất Triền được xác lập là như vậy. Nên thần có chức danh gọi là: 當 境 城 隍本土大王 Đương cảnh Thành Hoàng Bản Thổ đại vương.
 Trong đền còn có đôi câu đối chữ Hán, được phiên âm như sau:
名山大脈多鍾秀
樂土人來喜受廛
          Danh sơn đại mạch đa chung tú             
          Lạc thổ lai nhân hỉ thụ TRIỀN.
Nghĩa là:
          Núi thiêng, mạch lớn, nhiều linh khí
          Đất đẹp,người vui, dân TRIỀN vui hưởng.
          Đó là sự ca tụng hồn thiêng sông núi của khu đất Triền,cùng cảnh quan đời sống nơi đây.
          Tác giả của đôi câu đối này là vị quan chức làm việc ở cơ quan Bố chánh sứ tỉnh Vĩnh Yên, có học vị cử nhân Nho học, người xã Vân Phú, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam, thi đỗ khoa Nhâm tí đời vua Duy Tân triều Nguyễn (năm 1912), tên là Nguyễn Trần Mô, tên hiệu là Văn Sơn Nam Cao.
Ngày nay, đền còn tên chữ gọi là 玉 寶 靈 祠 NGỌC BẢO LINH TỪ nghĩa là đền thiêng Ngọc Bảo, có cấu trúc hình chữ “Đinh” (còn gọi là hình chuôi vồ), gồm hai phần: Nhà hậu cung và nhà tiền tế.
          Trong hậu cung bài trí theo phương thức thờ “bách thần”, gồm một cỗ long ngai, bài vị cổ. Còn hai chiếc hòm có lẽ là hòm đựng sắc phong và các văn bản giấy của đền đều sơn son.
          Một bức hoành phi, một đôi câu đối như đã dẫn .
          Một trong hai gian cạnh nhà tiền tế còn hai bia đá nhỏ là “bia hậu”. Một chiếc có hàng chữ:
- Nguyễn văn Tiết, tên chữ là Phúc Tiết. Giỗ chính ngày 16 tháng 3.
- Hậu nhất là Nguyễn thị Kính hiệu là Diệu Lạc. Giỗ chính ngày 16 tháng 10.
          Đó là bia đề danh những người có công với ngôi đền từ xa xưa.
Gian giữa nhà tiền tế, bài tri ban thờ Thánh Mẫu ,gồm:
          - Tượng Mẫu Thượng Thiên, y phục sắc đỏ, toạ ở giữa.
          - Tượng Mẫu Thượng Ngàn, y phục sắc xanh, toạ bên trái.
          - Tượng Mẫu Đệ tam Thoải phủ, y phục sắc trắng, toạ bên phải.
 Các Mẫu đều thuộc hệ Tứ phủ đang được thờ tự thịnh hành ở miền Bắc nước ta hiện nay, cũng đang rất rầm rộ ở tỉnh Vĩnh Phúc.
          Tuy nhiên pho tượng Thánh Mẫu tọa ở giữa có y phục sắc đỏ lại là thần tượng của thánh mẫu Liễu Hạnh. Là một trong thần tượng “Tứ bất tử” của Việt Nam.
Chếch phía trước tượng Thán Mẫu Liễu Hạnh, có hai pho tượng nữ nhỏ hơn, Đó là tượng các bà Quỳnh Hoa, Quế Hoa, 2 vị Tiên Cô theo hầu thánh Mẫu.
Sở dĩ bài trí thờ tự như vậy vì Vĩnh Yên lúc đó có nhiều người dân ở tỉnh Hà Nam lên cư trú làm ăn. Điển hình là ông Nguyễn Trần Mô làm quan trong phủ đường (người viết hoành phi và câu đối thờ ở đền) tỉnh Vĩnh Yên.
Ông và số dân người Hà Nam khi ở quê hương có thờ bà Liễu Hạnh, vì địa bàn các tỉnh Nam Định, Hà Nam là nơi trung tâm hình thành và thờ tự Mẫu Liễu Hạnh. Sự thờ tự Mẫu Liễu với những người dân Hà Nam ở đây là để không thiếu vắng hình bóng quê nhà, ít nhất là về mặt tâm linh. Và sự thờ tự ấy được nhân dân địa phương chấp thuận, tin theo, nên đã tồn tại trong nhiều chục năm nay.
Cho nên trường hợp ba pho tượng Mẫu trông đền, cùng giống nhau ở gương mặt, vóc dáng, tư thế ngồi, và chỉ khác nhau về trang phục, thì pho tượng ở giữa chính là tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
          Ngôi đền Triền do vậy trở thành nơi cộng cảm tâm linh của hai tín ngưỡng cổ truyền của người Việt là Tín ngưỡng thờ Thần Thành hoàng và tín ngưỡng thờ Mẫu, đều là các tín ngưỡng dân gian Việt cổ.
          Về sự tích của Thánh Mẫu Liêu Hạnh đã được nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705-1748) viết thành truyện “Vân Cát thần nữ” chép trong sách “Truyền kì tân phả”, còn có tên là “Tục truyền kì”.
Hàng năm vào ngày 25 tháng 2 nhân dân khu Triền vẫn thực hiện các
nghi thức tế Thần và rước kiệu Mẫu theo truyền thống địa phương vốn có.
          Ngôi đền đã được xếp hạng Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh thành phố năm 2012.
                                                Ngày 05 tháng 4 năm 2013.
 L K T
                                            



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét