Thứ Tư, 8 tháng 4, 2015

NHỮNG ĐỀ XUẤT GÓP Ý VỀ SỰ BÀI TRÍ THỜ TỰ Ở CÔNG TRÌNH NỘI THẤT VĂN MIẾU TỈNH VĨNH PHÚC.

NHỮNG ĐỀ XUẤT GÓP Ý VỀ SỰ BÀI TRÍ THỜ TỰ
 Ở CÔNG TRÌNH NỘI THẤT VĂN MIẾU TỈNH VĨNH PHÚC.


             Tác giả: LÊ KIM THUYÊN.
Nhà nghiên cứu Lịch sử
Hội viên Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Vĩnh Phúc.
Văn miếu có xuất phát điểm ở Việt Nam là miếu thờ Khổng Tử, vị tổ của đạo Nho khi Nho học trở thành khuôn vàng thước ngọc của các nhà nước Phong kiến phương Đông trong đó có Việt Nam. Sách “Đại Việt sử kí toàn thư”  của sử thần Ngô Sĩ Liên chép rõ váo năm Canh tuất đời vua Lí Thánh tông (1070); “Mùa thu tháng 8, làm Văn miếu, đắp tượng Khổng Tử, Chu Công 1 và Tứ phối 2, vẽ tượng Thất thập nhị hiền 3,, bốn mùa cúng tế. Hoàng thái tử đến học ở đây” 4.
Trong truyền thống, tỉnh nhà cũng đã có lập Văn miếu. Đó là Văn miếu Vĩnh Yên năm 1927, nhưng hiện không còn. Ngày nay, do có điều kiện, tỉnh ta khôi phục lại văn miếu với ý nghĩa hàng tỉnh, kiến trúc quy mô, hoành tráng, để tôn thờ đạo học, đó là việc làm đúng thời và cần
 Hiện nay phần kiến trúc đã xong. Tuy nhiên, do  là “Văn miếu” nên về sự bài trí trong không gian thờ tự của hạng mục nội thất khu đền miếu chính, sao cho tương thích với nội dung và các nhân vật thờ cúng thì đây là công việc hết sức cẩn thận và hoàn mĩ sao cho đúng với thiết chế truyền thống “Nho đạo” vừa tôn nghiêm như đền miếu, vừa tôn ti trật tự, thế thứ kỉ cương theo đạo nghĩa “Thầy-Trò” nơi chốn học đường; Để về sau trở thành di tích Lịch sử - Văn hóa lớn của tỉnh: Vừa cao sang nơi “Bảng vàng-Bia đá”, vừa là pho sách “Lịch sử nền khoa bảng của tỉnh”, tiêu biểu cho nền văn hiến của tỉnh, nên tự nó vừa là công trình khoa học, vừa là công trình trí tuệ tập thể, nên tôi rất hoan nghênh và tán đồng buổi làm việc sáng hôm nay. Tuy chưa có sự bài trí chính thức trên thực địa, (vì Văn miếu chưa làm lễ khánh thành) nhưng xem trong bản “Sơ đồ thiết kế bản vẽ thi công dự án: Đầu tư xây dựng Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc, hạng mục : nội thất khu đền chính” (Đã được phê duyệt và thực hiện như hiện nay), thì thấy có những công việc phải bàn. Tôi may mắn được tham gia vào Hội đồng tư vấn phản biện đối với “Sắp xếp, bài trí thờ tự tại Văn miếu tỉnh”, nhân trong hội nghị này, tôi xin mạnh dạn nêu lên nhừng ý kiến cá nhân như sau.
1. Về tên đặt: Theo sơ đồ thiết kế đã phê duyệt và thì công trình gần như hoàn chỉnh, (như vậy là không có sự xê dịch về tổng thể kiến trúc) đây là công trình “Văn miếu”, theo ý ngĩa truyền thống tức là miếu thờ Khổng Tử, cùng các vị “thần” (nhân thần) hàng “Văn” thi đỗ ở bậc “đại khoa” gồm các bảng xếp hạng đỗ đạt là: Trạng nguyên, Bảng nhân, Thám hoa, Tiến sĩ và Phó bảng. Ở Vĩnh Phúc gồm có 88 vị đỗ đạt, (có danh sách kèm theo). Trong truyền thống có ở tỉnh Vĩnh Phúc thời Lê Nguyễn, các bia được lập đều đề danh các TS Nho học (xem các thác bản có ở Văn miếu  huyện Lập Thạch, huyện Yên Lạc), không thấy có bia đề danh (nghĩa là không có thờ cúng) hàng quan võ, nay lại thấy có tấm bia số 18 có tên đề là “Bia vinh danh tiến sĩ nho học ngạch võ tĩnh Vĩnh Phúc”, là một tên bia không hợp thức. Bởi vì học vị TS là ghí nhận sự thành đạt của các Nho sĩ trải qua kì thi “đại khoa” ở sân điện triều đình do nhà vua trực tiếp làm chánh chủ khảo  (nên còn gọi là “Thi đình”), người thi đỗ được bổ vào hàng quan lại “văn quan” (lục bộ và các ban trong biên chế triều đình cùng các cơ quản li địa phương trấn, phủ, huyện, nay gọi là công chức). Còn người làm quan võ được tuyển chọn qua các kì thi “võ cử” (cung tên, “lục nghệ”),  người thi đỗ gọi là “tạo sĩ”, Chưa thấy có sách nào đề danh là “Tiến sĩ ngạch võ” một cách kì quặc như tấm bia số 18 nên tôi đề nghị:
1.1. Không lập bia thờ các  “tiến sĩ ngạch võ”, vì đây là kiến trúc “văn miếu”mà không phải là “võ miếu”. Thuộc địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đời Lê Nguyễn , suốt 6 thế kỉ không có di tích nào là “võ miếu”. Bởi vậy tấm bia số 18 có bia danh “Bia vinh danh TS Nho học ngạch võ tĩnh Vĩnh Phúc” có tên bia sai, mặc dầu người đỗ các khoa “võ cử” xét về hàm cấp có thể xếp vào tương đương như TS hàng văn.
Vậy tấm bia ghi danh này không hợp thức bầy biện ở Văn miếu. Bởi nếu cứ để nguyên tên bia như trong dự án thì công trình này sẽ phải mang tên là “Văn – Võ miếu tỉnh Vĩnh Phúc” (hoặc là Võ – Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc), vốn không có tiền lệ và không đúng với tiêu chí dự án của công trình.
Vậy tấm bia này tuy đã lập và đề danh 5 vị  “tạo sĩ” nên cất đi để đợi khi nào tỉnh ta lập được “Võ miếu” thì sẽ sử dụng.
1.2. Văn miếu hàng tỉnh đều chỉ đề danh trên bia các vị có học vị thi đỗ “Đại khoa” của các tỉnh (Như văn miếu Xích Đằng tỉnh Hưng Yên, Văn miếu tỉnh Bắc Ninh….). Các vị đỗ “Trung khoa” (Cử nhân), “Tiểu khoa” (Tú tài) đều chưa bao giờ được đề danh ở Văn miếu hàng huyện, huống chi đây lại là Văn miếu hàng tỉnh (Xem bia Văn miếu huyên Lập Thạch, huyện Yên Lạc). Cử nhân, Tú tài thường chỉ thấy có bia đề danh ở một số (không đều khắp) văn chỉ làng xã mà thôi. Việc đem danh sách 302 vị “trung khoa” (một con số trong tỉnh còn thiếu sót nhiêu, có thể tới hàng nghin) vào thờ ở văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc sẽ tạo nên sự lộn xộn so với truyền thống thế thứ của Đạo Nho. Vậy danh sách này nên cũng chỉ để làm tư liệu tham khảo trong chương trình khảo về “nền văn hiến tỉnh Vĩnh phúc” mà không đưa vào thiết chế thờ tự ở tỉnh đường.
1.3. Không thờ danh nhân Chu Văn An trong Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc.  Vì lẽ Vĩnh Phúc chỉ là một đơn vị hành chính địa phương cấp tỉnh, còn Chu Văn An là thuộc phạm trù Quốc gia đã có thờ ở Văn miếu Hà Nội. Thờ tự như vậy sẽ không đúng tiêu chí “Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc”: Người Vĩnh Phúc thành danh về khoa bảng.
1.4. Trong bảng kê khai chép trong 17 bia TS đã lập, mới chỉ có danh sách 86 vị, còn để thiếu 2 danh sách là các ông:
- Đặng Văn Bảng. Người xã Vân Cốc, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây. Nơi có bến đò Cốc sang huyện Phúc Thọ tỉnh Sơn Tây cũ.
Thi đỗ Đệ tam giáp ĐTS khoa Quý sửu niệu Tự Đức năm thứ 6 (1853). Tư liệu của bia Văn miêu Huế. (bia số 16. Thác bản No.16482 Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội.)
 Nay thuộc  về đất xã  Đại Tự huyện Yên Lạc.
- Hoàng Hữu Tài. Người xã Vân Cốc, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây. Hai vị cùng làng.
Danh sách có trong sách “Quốc triều khoa bảng lục” (của Cao Xuân Dục. Nhà in Long Cương in năm Thành Thái Giáp ngọ -1894- Bản VHv 640, Viện nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội tờ 17a).
Nay phần đất Vân Cốc ấy đã lở xuống sông Hồng vào khoảng sau đời Đồng Khánh (1886 – 11888), để tạo thành các phường Trí Thủy (phường nước chảy) trong khu vực xã Đại Tự và Cẩm Khê huyện Yên Lạc.
Nay quy đổi địa danh các ông thành người xã Vân Cốc huyện Phúc Thọ Hà Nội là lầm lẫn. Đề nghi có bia bổ sung.
Đồng thời, cũng có 2 thông tin sai lệch tiểu sử của 2 vị. Cụ thể:
- Về Phạm Công Bình: Thông tin sai về năm thi đỗ “Mậu thìn”, và tên khoa thi đỗ “Trinh Khánh tam niên” . Li do là đời vua Lí Huệ Tông (1211 – 1224) tức thái tử Sâm chỉ có một niên hiệu là Kiến Gia, và cũng không có năm Giáp tí là Mậu thìn. Đây là một thông tin mà khi ghi chép, các sách Đăng khoa lục đã nghi ngờ thì có lẽ nào nay căn cứ vào đâu mà khẳng định.
- Về Lê Đức Toản: Thông tin sai về sự tích cá nhân. Về thông tin này sai ở sự tích “tiết nghĩa” của ông. Bởi ông sinh năm 1452, mất năm 1509, hưởng dương 48 tuổi. Năm 1527, nhà Mạc mới thay ngôi vua Lê Chiêu Tông, thì lúc đó ông đã ở tuổi 76, liệu ông có còn ở cương vị chức quan đứng đầu Ngự sử đài nữa hay không ? Đây chỉ một gợi ý nhỏ. Còn thông tin về Lê Đức Toản “tiết nghĩa” có 2 nguồn khác nhau trong các sách “Đăng khoa lục” giữa bản đời Lê và bản đời Nguyên; giữ bản in và bản chép tay cũng như về sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của tác giả Phan Huy Chú (phần Nhân vật chí), là đầu bản đời Nguyễn và sách “Đại Nam nhất thống chí” của quốc sử quán triều Nguyễn, về bia văn chỉ xã Sơn Đông cũng như Gia phả của họ Lê thôn Quan tử hiện còn. Nên do thời gian hạn chế ở đây không thể bàn được nên xin khất lại sẽ đăng tải dần trên cac phương tiên thông tin đại chúng. Tạm thời ở đây tôi đề nghị bỏ câu ghi trên mặt bia đã khắc “Khi nhà Mạc tiếm ngôi nhà Lê, ông không chịu làm quan với nhà Mạc, triều Lê trung hưng phong ông là tiết nghĩa”. Vì thông tin đó không chuẩn về sử liệu, sẽ có thể gây kiện cáo của dòng họ.
1.5. Vì đây là công trình của tỉnh, đại diện cho hàng tỉnh, nên sự thờ tự cũng xếp theo trật tự cao thấp, trên dưới của các TS trong hàng tỉnh, việc chia sự thờ tự theo hàng huyện là vô lí, không khoa học. Vỉệc thì cử khoa trường là trong phạm vi cả nước để kén người tài giỏi trong cả nước, có kén “người theo hàng huyện” đâu?. Chia như thế, bản thân sẽ có ý nghĩa cục bộ, sẽ không kén chọn được người tiêu biểu để tôn thờ. Vì rằng như huyện Tam Dương, thành phố Vĩnh Yên mỗi đơn vị cấp huyện này suốt gần nghìn năm khoa bảng chỉ đỗ được 01 vi Đệ tam giáp ĐTS xuất thân, chẳng lẽ lại đem các vị ấy vào thờ, trong khi lại loại các danh sách Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa…về học vấn xứng đáng “bậc Thầy” không được thờ ư? Như vậy thì chẳng quá lộn xộn trái với sự tôn sùng trật tự của đạo Nho ư? Riêng huyện Tam Đảo không có người đỗ đạt, không có ai trong danh sách ở văn miếu, không thấy hụt hẫng sao? Đó là những tiền đề để gợi ý những tiêu chí mới về sự bài trí thờ tự , như sau:
2. Thờ tự ở Văn miếu tỉnh Vĩnh Phúc nên như thế nào?
2.1. Tầng thượng nhà “hậu cung”. (Theo thiết kế)
- Xếp theo thể lệ thờ Khổng Tử và các vị “Tứ phối” như Văn miếu Hà Nội, gian chính giữa gồm có Bài vị (đặt trong ngai rồng) Khổng Tử. Theo thiết kế hiện tại, có hai cách bài trí:
2.1.1. Bài trí ở gian chính giữa có bài vị thờ Khổng Tử  (Vì rằng trong văn miếu nếu không thờ Khổng Tử thì không phải là Văn miếu, mặc dầu ông là người nước Lỗ thuộc Trung Quốc cổ đại). Bốn vị “tứ phối” (4 vị được phối thờ) là người của tỉnh Vĩnh Phúc xếp theo công trạng được tuyển chọn là:
1/ Ông Phạm Công Bình. Các sách Đăng khoa lục chép ông là người huyện An Lạc. Nay là thôn Yên Lạc, xã Đồng Văn, huyện Yên Lạc. Thi đỗ danh sánh thứ nhất hàng Đệ nhất giáp  khoa thi Thái học sinh triều Lí. (Về năm thi đỗ còn và thi đỗ vào đời vua nào còn là vấn đề cần thảo luận cho thống nhất)
Hiện có đền thờ ở làng Yên Lạc. Di tích xếp hạng cấp Tỉnh - Thành phố. 
Lí do xếp ông vào vị thờ phối thứ nhất là bởi:
- Là người mở đầu cho nền khoa bảng tỉnh Vĩnh Phúc từ triều Lí. Lạị đồng thời là người có học vị cao nhất trong một khoa thi lấy đỗ 5 người.
- Là người có chức quan cao vào hàng “Thái phó” trước năm 1128. Có công dẹp quân Chân Lạp vào đánh phá Nghệ An: Công chống xâm lăng.
Một con người tài năng cả Văn lẫn Võ.
Bài vị của ông xếp ở hàng thứ nhất, liền bên trái bài vị Khổng Tử. (Bên đông).
2/ Ông Đào Sư Tích.
Người xã Lí Hải. nay là thôn Lí Hải, xã Phú Xuân, huyện Bình Xuyên.
Thi đỗ Trạng nguyên khoa Giáp dần niên hiệu Long Khánh thứ 2 đời vua Trần Duệ Tông (1374).
Chức quan Nhập nội hành khiển Hữu ti lang trung. Tương đương thủ tướng. Được thờ ở làng Lí Hải.
Bài vị xếp hàng thứ nhất, liền bên phải bài vị Khổng Tử. (Bên tây)
3/ Ông Nguyễn Duy Thì. Người thôn Hợp Lễ, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên.
Thi đỗ cao (Hoàng giáp). Chức quan cao, đóng góp nhiều cho quốc gia Đại Việt triều Lê Trung hưng. Nội dung công trạng có trong đạo sắc phong quan chức đề ngày 19 tháng 9 năm niên hiệu Khánh Đức năm thứ 3 – 1651: “Dực vân tán trị công thần, đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Lại bộ thượng thư kiêm chưởng lục bộ sự. kiêm Quốc tử giám tế tửu, Hàn lâm viện thị độc, chưởng Hàn lâm viện sự, Thiếu phó, Tuyền quận công, Thượng trụ quốc, thượng trật”. Cũng theo đạo sắc này ông được gia tặng chức thái tê, ban tên “thụy” từ lúc sống là “Hạnh Độ”, là một ân điển chưa từng ai có. (Xem trong “Săc phong Vĩnh Phúc” trang 88). Có đền thờ là phủ thờ ở quê nhà.
Bài vị xếp hàng thứ 2, phía sau bài vị Phạm Công Bình.
4/ Ông Nguyễn Thiệu Tri. Người xã Xuân Lôi, huyện Lập Thạch. thượng thư bộ Hộ triều Hồng Đức vua Lê Thánh Tông, là công thần “tiết nghĩa” bậc nhất triều Lê sơ. Phối thờ Nguyễn Thiệu Tri là để đề cao lòng “trung quân ái quốc” của giới Nho sĩ, vốn là đạo đức tối thượng của Nho gia.
Bài vị của TS Nguyễn Thiệu Tri xếp hàng thứ 2 sau bài vị Đào Sư Tích.
Tuy nhiên, theo thực thể kiến trúc đã hoàn chỉnh ở Văn miếu Vĩnh Phúc sẽ thấy thiếu cân đối. Vì còn bỏ trống 2 gian “tả - hữu”, không biết sắp xếp loại “tự khí” nào cho kín.
Do vậy có thể:
2.1.2. Bài trí thờ tự theo hàng ngang.
- Gian chính tẩm, đặt bài vị Khổng Tử.
- Gian bên trái (phía đông), đặt 2 bài vị thờ phối là Phạm Công Bình (liền phia trái bài vị Khổng Tử), vì có học vị cao (Đệ nhất giáp, đệ nhất danh) từ đời Lí, là người “khai khoa” của tỉnh Vĩnh Phúc.
Tiếp là bài vị thờ phối là Nguyễn Duy Thì.
- Gian bên phải (phía tây) đặt bài vị của Trạng nguyên Đào Sư Tích (liền phía phải bài vị Khổng Tử). Tiếp là bài vị của TS Nguyễn Thiệu Tri.
Cách bài trí này sẽ khép kín các gian thờ, vẫn rõ tôn ti trật tự trên dưới, và có khoảng trồng ở phia trước để bầy biện các đồ “tự khí”, lai có chỗ để hành lễ.
Tuy vậy còn 2 gian dĩ vẫn có đất trống. Vậy nên tham khaỏ các sách “Đăng khoa lục”, tôi đề nghị bổ sung thêm 2 vị là TS Triệu Thái, người làng Hoàng Chung xã Đồng Ích huyện Lập Thạch, vì ông là người “khai khoa” ở triều Lê (khoa Minh Kinh năm Kỉ dậu-1429- thời của vua Lê Lợi), cũng đồng thời là “khai khoa” về triều Lê của khoa bảng Vĩnh Phúc. Ông còn tham gia biên soạn “Luật lệnh” triều Lê. Lại có công bang giao với nhà Minh về vấn đề biên giới Khâm Châu, đòi lại được một số châu động.
Vị thứ 2 là TS Nguyễn Văn Chất, người xã Vũ Di huyện Vĩnh Tường, thi đỗ Hoàng giáp khoa Mậu thìn niên hiệu Thái Hòa năm thứ 6 đời vua Lê Nhân Tông (1448). Làm quan tới chức Tư nghiệp (hiệu phó) Trường Quốc tử giám, Thượng thư.bộ Hộ, tham gia soạn Quốc sử, lại có công sang sứ nhà Minh, Rồi thăng đến Thượng thư, có công trình văn học biên chép thêm vào sách “Việt điện u linh” của Lí Tế Xuyên triều Trần.
Như vậy là ở thượng cung khu đền chính có 7 vị được tôn thờ gồm có bài vị Khổng Tử và 6 vị nữa đều là các đại diện tiêu biểu của nền khoa bảng tỉnh Vĩnh Phúc, như đã kể ở trên.
2.2. Tầng “hạ” (dưới) tòa hậu cung. (Theo thiết kế)
Giành riêng bài trí thờ các TS đề danh trên bia, sắp xếp theo tình tự sau trước của từng khoa thi, năm thi theo lịch đã chép trong các văn bản cổ. Hiện có 17 bia tất cả. (một số lẻ cần phân chia lại). Trên mặt bia giới thiệu sự tích về mỗi vị, không viết dài dòng như trang sách. Mà mỗi vị chỉ cần 3 lượng thông tin chuẩn sác:
- Thông tin về địa chỉ làng xã theo văn bản cổ. Quy đổi ra địa chỉ hiện thời.
- Khoa thi , năm thi đỗ và thứ bậc thi đỗ. (tài năng)
- Quan chức. (đóng góp)
Các bia sắp xếp theo trình tự lịch sử. Thứ tự các danh sách trong bia  chép theo thứ tự của văn bản bia văn miếu Hà Nội, và ghi chép trong các sách Đăng khoa lục còn ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội là theo văn bản gốc.
Việc chép danh sách trên bia của 88 vị chia thành 18 bia (Vì Vĩnh Phúc “tín” (tin theo) con số 9, mà 18 là số nhân đôi (âm dương), nên cần rất cẩn trọng.
Vấn đề câu chữ thông tin trên bia, tôi đề nghị tỉnh cần thành lập một “Hội đồng khoa hoc” để giám sát cụ thể công việc tuyển chon này. Bởi chỉ sai sót một thông tin nhỏ, sẽ mất sự chính sác  kkoa học của công trình hàng tỉnh.
Văn miếu Vĩnh Phúc là công trinh văn hóa lớn chung cho hàng tỉnh. Là di sản để lại cho mãi các thế hệ cháu chắt về sau. Chúng ta may mắn là người khởi đầu nối lại truyền thống đã đứt gẫy, đồng thời cũng là những người mở ra một đề xuất cho mai sau. Bởi vậy chẳng có gì phải vội vàng. Hôm nay làm được phần cốt yếu là nền mong kiến trúc, là sác định nội dung 88 nhà khoa bảng của tỉnh để ghi danh, con thiếu phần nào, thời gian sẽ chọn lọc cho chúng ta, chắc chắn sẽ đầy đủ hơn, tinh tường hơn, chính sác hơn, và khoa học hơn. Tôi đề nghị công trình bước khởi đầu này tạm thời dừng lại ở đây, cho làm lễ khánh thành. Chờ thời gian sẽ khỏa lấp nhưng chỗ chống hôm nay. Trên đây là những nhận xét ban đầu.
Xin chúc buổi làm việc được đồng nhất và thành công.
Sơn Đông. Ngày 11 tháng 3 năm 2015.
Chú thích:
1. Chu Công, tức Chu Công Đán. Con vua Văn Vương nhà Chu (Trung Quốc cổ đại), người định ra chế độ Lễ, Nhạc; Đặt ra nghi thức Quan (quan chức), Hôn (hôn nhân), Tang (việc tang), Lễ (nghi lễ). Không phải là Chu Văn An như đang thờ hiện nay, vì Chu Văn An là nhân vật triều Trần, sinh năm 1292-mất năm 1370.
2. Tứ phối: 4 vị cùng thờ theo chỉ Nhan Uyên, Tăng Sâm, Tử Tư, Mạnh Tử là 4 vị học trò của Khổng Tử.
3. Thất thập nhị hiền: 72 vị học trò giỏi của Khổng Tử.
4.TT. Bản kỉ thực lục. Bản dịch NXB KHXH.Hà Nội, tập I, trang 275.





 



3 nhận xét:

  1. Kính chào Nhà nghiên cứu Lịch sử Lê Kim Thuyên.

    Cháu xin giới thiệu: Cháu là Phạm Tiến Quân, hiện đang là sinh viên thực tập tại Hệ phát thanh dân tộc VOV4 Đài Tiếng nói Việt Nam.

    Đầu thư cháu xin chúc bác và gia đình dồi dào sức khỏe và tràn đầy niềm vui trong cuộc sống.
    Hôm nay, cháu gửi thư này muốn trình bày với bác một việc như sau: Cháu đang tìm hiểu và viết bài báo ( dạng phát thanh) có đề tài là: Tục thờ cúng tổ tiên của người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc và Tục thờ Quốc Mẫu Tây Thiên của người Sán Dìu ở Vĩnh Phúc. Qua quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin, cháu được biết bác là nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa, và đặc biệt bác đã có những công trình nghiên cứu về tục thờ cũng tổ tiên, thờ Mẫu của người Sán Dìu. Vì vậy cháu rất mong được sự giúp đỡ, chỉ bảo của bác, cũng như được phỏng vấn bác để hoàn thành bài báo một cách trọn vẹn, khoa học, chính xác - nhằm phục vụ việc truyền bá thông tin trên sóng Đài Tiếng nói Việt Nam.
    Cuối cùng cháu xin chân thành cảm ơn bác - Nhà nghiên cứu Lịch sử Lê Kim Thuyên đã dành thời gian quan tâm và đọc thư của cháu.
    Cháu mong sớm nhận được hồi âm từ bác. (Cháu xin phép bác cho cháu số điện thoại để tiện việc liên lạc).
    Cháu xin chân thành cảm ơn bác.
    Kính thư.

    Trả lờiXóa
  2. Nhận xét này đã bị tác giả xóa.

    Trả lờiXóa